Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý KH&CN địa phương
Thực tiễn công tác quản lý khoa học và công nghệ (KH&CN) địa phương hiện nay (đặc biệt là trên địa bàn huyện, xã) đang đặt ra những vấn đề đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ cả về cơ chế, chính sách và tổ chức. Dưới đây, tác giả đề xuất một số giải pháp và mô hình quản lý nhằm nâng cao chất lượng công tác này. Những bất cập trong công tác quản lý KH&CN địa phương hiện nay:
Thứ nhất, chưa có tính hệ thống, đồng bộ, thống nhất đầu mối quản lý từ tỉnh đến huyện, xã
Ở cấp tỉnh, Sở KH&CN hầu như chỉ quản lý trong luồng, chỉ biết đến những đề tài, dự án và những nhiệm vụ KH&CN khác được đầu tư từ nguồn kinh phí sự nghiệp khoa học. Các ngành nhìn chung đều "cát cứ", theo từng luồng riêng, hoạt động độc lập, “mạnh ai nấy được”. Hoạt động quản lý nhà nước về KH&CN không được quy về một đầu mối, không có "chân rết" tới tất cả các ngành, các tổ chức, doanh nghiệp. Nếu có cũng chỉ để "đánh bóng, trang trí" cho đơn vị (có ngành được xem là kinh tế mũi nhọn của tỉnh, Hội đồng KH&CN ngành được thành lập trên 10 năm nay nhưng chưa họp một buổi nào). Tương tự, cấp huyện là đầu mối tập trung những dự án ứng dụng tiến bộ kỹ thuật (TBKT), những mô hình trình diễn từ nhiều nguồn (các cấp, các tổ chức, các ngành) đã dẫn đến tình trạng "cha chung không ai khóc", dự án, mô hình tràn lan, lặp lại. Công tác tham mưu cho lãnh đạo để có định hướng rõ ràng về khả năng phát triển kinh tế - xã hội thông qua mô hình, dự án ứng dụng TBKT còn rất hạn chế. Cứ như thế, từ nhiều năm nay, có huyện đã có hàng chục mô hình ứng dụng TBKT được triển khai (đặc biệt ở một số huyện miền núi, con số này còn nhiều hơn thế), song vẫn chưa tìm ra được hướng phát triển kinh tế - xã hội cho địa phương mình một cách bền vững. Thực tế đó đòi hỏi cần thiết phải có một chế tài rõ ràng để việc quản lý KH&CN ở cấp huyện quy về một đầu mối, nhằm xâu chuỗi các dự án, mô hình đã triển khai và đứng ra xem xét, đánh giá một cách khách quan tính khả thi của từng mô hình, dự án, điều này đang thiếu và yếu ở địa phương. Thực trạng là tại cấp huyện, xã/phường, KH&CN đang bị "hòa tan" (trong các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công) mà chưa thể hiện được vai trò quản lý các hoạt động KH&CN đó.
Thứ hai, trình độ, năng lực, nhất là về quản lý KH&CN của người điều hành còn hạn chế
Lãnh đạo các cấp chính quyền có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động KH&CN ở địa phương. Có thể xem đây là mạng những mắt xích quan trọng để phát huy sức mạnh của hoạt động KH&CN. Người lãnh đạo vừa đóng vai trò là khách thể (khi là người tiếp nhận ứng dụng KH&CN), vừa là chủ thể (khi quản lý và xây dựng kế hoạch nhân rộng những thành quả do KH&CN mang lại). Do vậy, khả năng huy động sức mạnh của KH&CN ở cấp này phụ thuộc vào nhận thức, năng lực, trình độ, và tính chủ động của người điều hành, lãnh đạo. Mặc dù KH&CN được nhắc đến hàng ngày, trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội nhưng công tác quản lý KH&CN là một vấn đề khá mới mẻ, xa lạ đối với người điều hành (đặc biệt là ở cấp xã/phường). Họ hành xử một cách thụ động, theo kiểu “cho và nhận", nặng về tác nghiệp. Cụ thể, khi tiếp thu một dự án, lãnh đạo cũng như người dân rất hào hứng và việc triển khai rất tốt, nhưng khi dự án kết thúc, mô hình ứng dụng KH&CN lại “đi vào quên lãng” mà nguyên nhân không phải bởi dự án không khả thi mà bởi cấp lãnh đạo ở đó lúng túng không biết tổ chức, điều hành như thế nào để duy trì, nhân rộng. Do vậy, có thể nói, khả năng này phụ thuộc nhiều vào nhận thức, trình độ, năng lực của người đứng đầu mà trên thực tế còn yếu và có nhiều bất cập.
Thứ ba, lực lượng thực hiện nghiên cứu khoa học, chuyển giao TBKT vẫn còn bất cập
Chúng tôi đã có một cuộc điều tra nhằm đánh giá tình hình ứng dụng kết quả của các đề tài, dự án KH&CN trong 13 năm (từ 1990 đến 2003), kết quả cho thấy: Những nhiệm vụ KH&CN do các nhà khoa học Trung ương (các trường đại học, trung tâm, viện nghiên cứu) chủ trì thực hiện, do có trình độ chuyên sâu, nắm đầy đủ thông tin và có nhiều kinh nghiệm trong nghiên cứu, nên việc triển khai rất bài bản, công trình rất "đồ sộ", “chỉn chu”, đặc biệt là các đề tài thuộc các lĩnh vực kinh tế và tổng hợp. Xét về phương diện lý luận, đề tài thì rất “chiến lược” song vẫn bị "bỏ tủ", ít được các ban, ngành chức năng trong tỉnh khai thác sử dụng vì giá trị thực tiễn hạn chế. Đặc biệt, ở các dự án ứng dụng, do thiếu thực tế nên việc chuyển giao một số đối tượng (như cây, con) không phù hợp với điều kiện và tập quán canh tác của địa phương, hạn chế và gặp khó khăn trong việc duy trì và nhân rộng khi kết thúc. Mặt khác, sau khi được đánh giá nghiệm thu, cơ quan chủ trì và chủ nhiệm đề tài ở xa hoặc không có chức năng triển khai nên kết quả lại được giao cho tỉnh. Đại diện của tỉnh (Sở KH&CN) là đầu mối giao cho ngành chức năng, và sau khi tiếp nhận, việc triển khai hay không thì chưa ai kiểm tra giám sát. Điều này xảy ra cũng do không có một cơ chế rõ ràng. Còn những đề tài, dự án do các đơn vị địa phương chủ trì (chiếm khoảng 80%), mặc dù am hiểu địa bàn, có nhiều kinh nghiệm thực tế, thuận lợi cho khả năng triển khai kết quả nhưng trên thực tế, vẫn có nhiều bất cập. Đó là: Hạn chế về năng lực, thông tin và cả quỹ thời gian để triển khai. Có đến gần 50% số chủ nhiệm đề tài, dự án thuộc vào đối tượng công chức nhà nước ở các sở, ban, ngành của tỉnh. Như vậy, việc kiêm thêm trọng trách chủ nhiệm đã dẫn đến tình trạng "chủ nhiệm hờ". Thực tế đó đã dẫn đến tình trạng đề tài, dự án không hoàn thành đúng thời hạn, hoặc là hoàn thành nhưng với chất lượng không cao.Như vậy, xét về góc độ quản lý, các đối tượng triển khai nhiệm vụ KH&CN mà cụ thể là hoạt động nghiên cứu và ứng dụng còn bất cập cả về đội ngũ lẫn cơ chế.
Thứ tư, tập quán, trình độ nhận thức của người dân còn hạn chế
Việc lồng ghép các chương trình KH&CN với chương trình kinh tế - xã hội ở địa phương nhìn chung còn hạn chế, chưa tập trung, và thiếu đột phá, vẫn thường xảy ra tình trạng khi tiếp nhận một TBKT nào đó đơn thuần chỉ đứng trên quan điểm “dân đang nghèo, thiếu mọi thứ” nên “được cái gì quý cái đó” chứ chưa nghĩ đến tính hợp lý, bền vững của mô hình. Bên cạnh đó, tập quán, nhận thức và trình độ của người dân cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiếp nhận TBKT. Những khu vực nghèo thường người dân có trình độ thấp, thiếu vốn, lạc hậu trong tập quán canh tác trong khi mô hình ứng dụng TBKT đòi hỏi công nghệ cao hơn, có cái mới, hoàn thiện hơn cái cũ. Nhiều mô hình có quy mô lớn, yêu cầu tập trung kinh phí đầu tư vượt quá suất đầu tư của dân nên không thể duy trì được. Ở một số dự án, các đối tượng chuyển giao quá mới, đòi hỏi kỹ thuật cao nên khi đang triển khai thì rất tốt (vì có nguồn kinh phí bao cấp, có cán bộ kỹ thuật luôn túc trực, theo sát) nhưng khi dự án rút đi và bàn giao cho dân thì không tiếp tục phát triển được. Thêm nữa, trong nhận thức của người lãnh đạo cũng như của người dân trong vùng dự án vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỉ lại vào Nhà nước đã dẫn đến tình trạng mô hình dừng lại, rồi “tan dần”.
Thứ năm, trong tổ chức còn bất cập
Điều băn khoăn hiện nay là trên địa bàn huyện, xã - nơi KH&CN trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của người dân, thì ai (cá nhân, tổ chức nào) sẽ trực tiếp làm nhiệm vụ tham mưu cho chính quyền địa phương để chỉ đạo công tác quản lý KH&CN và trực tiếp theo dõi các hoạt động chuyển giao công nghệ, dịch vụ KH&CN? Mặc dù trong Thông tư liên bộ 15 (giữa Bộ KH&CN và Bộ Nội vụ), chức năng, nhiệm vụ đã được cụ thể hóa từ tỉnh cho đến huyện, nhưng tổ chức bộ máy mới đang hoàn thiện ở cấp tỉnh. Đặc biệt, tại cấp xã/phường nhiệm vụ này chưa hề được đề cập đến. Nghị định 172 của Chính phủ quy định: KH&CN nằm trong phòng kinh tế (mặc dù KH&CN là một ngành tổng hợp). Phải chăng, KH&CN khi về đến cấp huyện là "ứng dụng", trực tiếp trở thành lực lượng sản xuất nên nó được đưa vào phòng kinh tế? Nếu quan niệm như thế, KH&CN mất hẳn chức năng quản lý nhà nước mà trở thành là một đơn vị sự nghiệp hoạt động như khuyến nông, khuyến lâm, khuyến công, khuyến ngư. Chúng tôi cho rằng, phải có một phòng KH&CN riêng ở cấp huyện để thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Vì sao như vậy? bởi vì nó lớn và vì KH&CN là một ngành trùm lên nhiều ngành. Cấp huyện là nơi tập trung mô hình, dự án ứng dụng KH&CN của tất cả mọi ngành, mọi tổ chức, do vậy, không có lý do gì mà "ứng dụng KH&CN" lại không có một cơ quan để quản lý nó. Như vậy, có phòng quản lý KH&CN cấp huyện mới có khả năng đưa KH&CN của huyện đó về một đầu mối.
Giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý KH&CN địa phương
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động KH&CN, chúng ta cần hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý KH&CN theo hướng đồng bộ, đầy đủ và cụ thể để đảm bảo hoạt động quản lý KH&CN có thể vươn đến tận xã/phường. Tách các hoạt động dịch vụ và sự nghiệp ra khỏi công tác quản lý nhà nước về KH&CN và theo đó có quy định cụ thể về việc thống nhất quản lý nhà nước về KH&CN ở địa phương (trong Thông tư 15 chưa làm rõ điều này).
Về tổ chức bộ máy, cần hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về KH&CN từ tỉnh đến huyện, xã. Ở cấp tỉnh, không nhất thiết hình thành một phòng quản lý KH&CN cấp huyện riêng, và cũng không cần thêm biên chế mà đưa nhiệm vụ này thuộc một trong những phòng chức năng của Sở. Tại cấp huyện, cần thành lập phòng quản lý KH&CN có từ 2 đến 3 chuyên viên tùy tình hình cụ thể của từng địa phương. Tại xã/phường chỉ cần một người chuyên trách công tác quản lý KH&CN (cần lưu ý không đánh đồng cán bộ chuyên trách quản lý KH&CN với cán bộ của các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư, công vì đây là mạng lưới vừa dịch vụ KH&CN vừa hoạt động sự nghiệp KH&CN). Công tác quản lý hoạt động KH&CN ở cấp huyện, xã rất mới mẻ, do đó, cán bộ thực hiện đòi hỏi phải là những người vừa có trình độ học vấn, vừa có kinh nghiệm trong công tác quản lý, có khả năng tổng hợp, chủ động tham mưu đề xuất và xây dựng kế hoạch.
Về chính sách và cơ chế, cần có quy định, người phụ trách KH&CN ở cấp địa phương phải là công chức nhà nước, được đãi ngộ thích đáng và gắn trách nhiệm, có thưởng phạt cụ thể, rõ ràng. Đối với người “quan trọng nhất” - người đứng đầu địa phương (Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch chỉ đạo công tác quản lý KH&CN), cần phải có chính sách phụ cấp thích hợp và được tạo điều kiện để nắm bắt thông tin, nâng cao khả năng chỉ đạo và định hướng KH&CN trên địa bàn. Phân cấp quản lý hoạt động KH&CN đến huyện, cụm xã, xã đối với một số nhiệm vụ mang tính địa phương hóa. Địa phương phải chủ động đề xuất những nhiệm vụ KH&CN mang tính cấp bách nhưng phải phục vụ mục tiêu phát triển lâu dài, toàn diện. Cơ quan quản lý KH&CN cấp trên có nhiệm vụ thẩm định, trên cơ sở đó, giao nhiệm vụ cụ thể (nội dung lẫn kinh phí) cho địa phương chủ động triển khai, tự chịu trách nhiệm về kết quả và hiệu quả. Gắn trách nhiệm này cho từng cá nhân cụ thể và có cơ chế thưởng phạt rõ ràng. Hàng năm, cơ quan quản lý KH&CN cấp trên phân bổ kinh phí dành cho cấp huyện, tuy nhiên, khi chưa chủ động đề xuất nhiệm vụ KH&CN thì cấp huyện không thể có được nguồn kinh phí này. Đồng thời, phải có hệ thống giám sát khi thực hiện, có tổng kết, rút kinh nghiệm hàng năm. Ngoài ra, cũng cần có chính sách khuyến khích, ưu đãi mọi cá nhân, tổ chức trong chuyển giao công nghệ, TBKT gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống cho người dân, bảo vệ môi trường bền vững.
Thử đề xuất mô hình tổ chức quản lý KH&CN cấp huyện, xã
Trên cơ sở các giải pháp nêu trên, xin đề xuất mô hình tổ chức bộ máy quản lý KH&CN cấp huyện, xã:
Như đã đề cập trong phần giải pháp, theo chúng tôi, ở cấp huyện nên tách nhiệm vụ quản lý nhà nước về KH&CN ra khỏi Phòng kinh tế và tách nhiệm vụ quản lý ở KH&CN cấp huyện theo quy định của Thông tư 15 thành 2 mảng: Quản lý nhà nước và hoạt động sự nghiệp.
Mảng quản lý nhà nước: Đối với cấp huyện, tùy tình hình cụ thể của từng huyện mà bố trí Phòng quản lý KH&CN có từ 2-3 người. Đối với cấp xã, có một cán bộ chuyên trách về KH&CN quản lý mọi hoạt động KH&CN ở địa phương (khuyến nông, lâm, ngư, công và các tổ chức, hội có chức năng chuyển giao TBKT).
Mảng hoạt động sự nghiệp: Ở cấp huyện, thành lập Trung tâm dịch vụ và ứng dụng KH&CN. Trung tâm là đơn vị sự nghiệp có thu, chịu sự quản lý nhà nước của Phòng quản lý KH&CN. Trung tâm này bao gồm cả khuyến nông, lâm, ngư, công (tất cả đều cùng thực hiện một nhiệm vụ chiến lược giống nhau với nội dung hoạt động KH&CN nêu trên), trực tiếp triển khai ứng dụng TBKT hoặc chuyển giao công nghệ đến đơn vị và người hưởng lợi, do đó ở cấp xã không cần thiết phải có mạng lưới tổ chức của Trung tâm. Hoặc có thể sử dụng hệ thống mạng lưới đã có mà khuyến nông, lâm, ngư trực tiếp tham gia chuyển giao TBKT.
Nguyễn Văn Thắng
Theo Tạp chí hoạt động khoa học