Đánh giá thực trạng và một số giải pháp hướng đến truy xuất nguồn gốc nông sản Bến Tre
Tình hình về truy xuất nguồn gốc nông sản
Việc hội nhập quốc tế sâu rộng và việc tham gia các hiệp định thương mại quốc tế, FTAs giúp Việt Nam phát huy được lợi thế cạnh tranh, mở rộng thị trường, tăng khối lượng xuất khẩu. Kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới. Nông sản Việt Nam hiện có mặt trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trường lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, EU… Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, sự cạnh tranh không chỉ xuất hiện khi hàng hóa Việt Nam đi ra thế giới mà còn ở ngay thị trường trong nước, khi hàng hóa thế giới nhập khẩu vào Việt Nam. Việc đảm bảo hàng hóa có chất lượng tốt là điều rất quan trọng cho khả năng cạnh tranh. Nhiều doanh nghiệp đã hướng đến sản xuất thực phẩm đạt các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, HACCP…, nhưng như vậy vẫn chưa đủ nghiêm ngặt cho chuẩn mực chất lượng. Người tiêu dùng cần có sự minh bạch hơn về quy trình, nguồn gốc sản phẩm, cần có thông tin truy xuất nguồn gốc tại tất cả các khâu trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thói quen của người tiêu dùng cũng đã có nhiều thay đổi. Việc mua sắm hàng hóa ở các cửa hàng tiện ích, siêu thị, trung tâm thương mại đã trở thành thói quen của nhiều người. Người dân cũng có niềm tin vào việc những sản phẩm được dán nhãn, tem mác của cửa hàng. Song phần lớn vẫn chỉ là đặt niềm tin vào các cửa hàng được coi là có thương hiệu. Còn việc truy xuất nguồn gốc hàng hóa đó sản xuất ở đâu, tiêu chuẩn chất lượng được đánh giá bởi đơn vị nào phần lớn người tiêu dùng vẫn chưa được chú trọng.
Thực trạng và một số giải pháp về truy xuất nguồn gốc nông sản tại Bến Tre.
Bến Tre với đặc điểm tự nhiên hình thành nên 3 vùng sinh thái ngọt, lợ, mặn; với đa dạng các sản phẩm đặc thù như dừa, cây ăn trái, bò, heo, tôm biển,… Trong đó, diện tích dừa 71.460 ha, đang cho trái 64.647 ha, cho sản lượng 569.725.000 trái/năm, với khoảng 10% diện tích là dừa uống nước. Diện tích cây ăn trái 28.283 ha, đang cho trái 21.282 ha, cho sản lượng 292.337 tấn/năm (số liệu thống kê 2017). Trong đó, có 4 loại cây ăn trái chủ lực gồm bưởi Da xanh chiếm 29,3% diện tích, chôm chôm 19,3%, nhãn 9,5% và sầu riêng 7,3%. Trong thời gian qua, ngành Nông nghiệp đã phối hợp với các cấp ủy đảng, chính quyền tập trung tuyên truyền, vận động thành lập các THT, HTX, tạo điều kiện liên kết nông dân với doanh nghiệp để tiêu thụ nông sản, hình thành chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp. Đến nay, toàn tỉnh có 840 THT và 95 HTX theo Nghị định 151/2007/NĐ-CP; chuỗi giá trị sản phẩm dừa, bưởi da xanh, nhãn được hình thành và có chiều hướng phát triển tốt.
Để các chuỗi các sản phẩm này được hoàn thiện việc truy xuất nguồn gốc nông sản đã và đang được triển khai nhanh chóng và được xem là xu thế tất yếu để phát triển chuỗi giá trị bền vững. Bởi những giải pháp và tiện ích mà nó mang lại là rất lớn không chỉ đối với người tiêu dùng, doanh nghiệp sản xuất mà còn là một trong những giải pháp giúp nông sản Việt khẳng định được tên tuổi, chất lượng sản phẩm trước sức ép hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay.
Đứng từ góc độ người tiêu dùng, ủng hộ sản phẩm dán tem truy xuất nguồn gốc là cách bảo vệ quyền lợi của chính mình. Bởi khi người tiêu dùng đòi hỏi và sẵn sàng chi nhiều hơn cho những sản phẩm an toàn, chất lượng thì doanh nghiệp sẽ chủ động sản xuất “an toàn, sạch” để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Nắm bắt được xu thế này, đã có những doanh nghiệp chuỗi giá trị dừa bước đầu xây dựng cho mình bộ truy xuất hàng hóa, đặc biệt là các hàng hóa nông sản theo một số các tiêu chuẩn GlobalGAP, hữu cơ và truy xuất nguồn gốc sản phẩm như Công ty TNHH chế biến dừa Lương Quới; Công ty CP chế biến dừa Á Châu; Công ty CP XNK Bến Tre; Công ty XNK Toàn Cầu trái cây tươi; Công ty TNHH Nga Phú Thịnh và công ty TNHH Hào Quang; đối với cây ăn trái có công ty XNK trái cây Chánh Thu ... Các doanh nghiệp này hướng đến không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước, mà còn nỗ lực để có thể chinh phục thị trường quốc tế vốn có đòi hỏi cao và nghiêm ngặt về các chuẩn mực chất lượng.
Thêm vào đó, Tập đoàn bưu chính viễn thông VNPT Bến Tre được sự phê duyệt của Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện đề tài: Xây dựng và ứng dụng các giải pháp quản lý truy xuất nguồn gốc cho các sản phẩm chủ lực của tỉnh Bến Tre như bưởi da xanh, dừa xiêm xanh, chôm chôm, nhãn và hoa kiểng. Mục tiêu đề tài: Xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử sử dụng mã QR cho các sản phẩm chủ lực trên địa bàn tỉnh và thử nghiệm ứng dụng hệ thống tem truy xuất nguồn gốc điện tử; trong đó, có các doanh nghiệp đăng ký tham gia đề tài về truy xuất nguồn gốc sản phẩm bưởi da xanh: Cơ sở Hương Miền Tây, HTX bưởi da xanh Bến Tre, Mỹ Thành An, Lương Phú và Giồng Trôm; sản phẩm dừa xiêm xanh: Công ty TNHH XNK MêKong, Cơ sở chế biến dừa Ba Đốt và Công ty TNHH Thuận Thành; sản phẩm trái cây có Hợp tác xã DVTM Nông sản an toàn Bến Tre.
Từ thực tế nêu trên, để tạo sự chuyển biến cho truy xuất nguồn gốc xuất xứ sản phẩm nông sản chủ lực của tỉnh trong xu thế hội nhập và cạnh tranh, Tỉnh đã có những sách lược riêng trong khâu tổ chức; điều này đã được thể hiện rõ trong Nghị quyết 03 của tỉnh ủy và Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp; trong đó yếu tố sản xuất an toàn, bền vững, xây dựng và hoàn thiện chuỗi giá trị chủ lực của tỉnh hướng tới xây dựng thương hiệu, truy xuất được nguồn gốc nông sản; ngành nông nghiệp của tỉnh đã và đang quan tâm thực hiện các nội dung sau:
* Đổi mới tổ chức sản xuất:
- Việc tổ chức nông dân liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị nâng cao năng lực, trình độ tổ chức, phát triển sản xuất các sản phẩm đặt trưng tại địa phương.
- Liên kết nông dân từ những nông hộ sản xuất nhỏ lẽ, tự phát thành các nhóm sản xuất tương đối đồng nhất (câu lạc bộ, tổ hợp tác sản xuất, hợp tác xã…). Sự liên kết này giúp nông dân có cơ hội tốt trong việc chia sẽ kinh nghiệm, kiến thức và các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất cũng như tiếp cận thị trường. Nông dân trở nên gắn bó, đồng cảm, có trách nhiệm với nhau hơn trong sản xuất và từ đó tạo nên sức mạnh cộng đồng, nâng cao năng lực ứng phó với những bất lợi trong sản xuất như biến động của giá cả thị trường, thiên tai, dịch hại, biến đổi khí hậu …
- Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi trong việc chuyển giao các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đặc biệt là việc ứng dụng Thực hành nông nghiệp tốt (GAP) hữu cơ cho từng loại nông sản.
* Tạo chuỗi giá trị trong sản xuất:
Tạo vùng sản xuất hàng hóa ổn định, đồng nhất qua đó thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp thu mua, chế biến. Sự liên kết chặt chẽ giữa nông dân với doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ nông sản là điều kiện tiên quyết trong việc hình thành và nâng cao hiệu quả của chuỗi giá trị; qua đó giúp sản xuất được bền vững, thu nhập nông dân được ổn định và không ngừng cải thiện.
Việc phát triển bền vững các chuỗi liên kết là mục tiêu quan trọng trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp địa phương, nhằm bảo đảm sản xuất, tiêu thụ nông sản và chuyển giao khoa học - công nghệ…
* Chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật theo hướng thực hành nông nghiệp tốt, hướng hữu cơ tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, an toàn, giúp nông sản nâng cao khả năng cạnh tranh.
* Đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao trình độ; ứng dụng công nghệ 4.0 vào trong nông nghiệp góp phần thay đổi phương thức sản xuất, tập trung phát triển sản xuất theo hướng an toàn, truy xuất nguồn gốc sản phẩm và kiểm soát được chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
Tóm lại, trong xu thế hội nhập và với những đặc thù của tỉnh Bến Tre, sản xuất nông nghiệp theo hướng an toàn, bền vững và truy xuất được nguồn gốc sản phẩm có thể xem là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để xây dựng thương hiệu nông sản và để đạt đựợc cần phải thực hiện hiện đồng bộ các nội dung cốt lõi như đã nêu trên. Việc xây dựng thương hiệu, truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông sản của Tỉnh trong thời gian tới chắc chắn sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, để đạt được thành công đòi hỏi sự nổ lực, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các cấp, các ngành, sự vào cuộc quyết tâm, mạnh mẽ của toàn xã hội.