Hiệu quả ứng dụng công nghệ Micro-Nano Bubble Oxygen trong ao ương cá tra từ hương đến giống
Ứng dụng công nghệ Micro-nano Bubble Oxygen (MNO) trong ao ương cá tra giai đoạn cá hương lên giống với mục tiêu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất giống cá tra. Nghiên cứu này được thực hiện tại Trại nuôi thủy sản Thạnh Phú thuộc Công ty TNHH Đầu tư Thủy sản Huy Thuận từ tháng 8/2018 đến tháng 2/2019. Các thí nghiệm được bố trí trong ao đất diện tích 2.000m2 với mật độ ương 150 và 200 con/m2, mỗi nghiệm thức có 03 ao thí nghiệm ứng dụng công nghệ MNO và 01 ao đối chứng. Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng oxy hòa tan trong các ao có sử dụng máy MNO dao động 7,26 – 8,75mg/L cao hơn ao đối chứng (5,22-6,67 mg/L). Sau 70 ngày ương nuôi, tỷ lệ sống của cá giống thí nghiệm loại ao mật độ 150con/m2 và 200 con/m2 đạt 87 – 87,4% cao hơn ao đối chứng (76,2 - 80%). Tương tự, hệ số chuyển đổi thức ăn FCR của cá ở các ao thí nghiệm từ 0,82 -0,84 thấp hơn ao đối chứng (0,89-0,9). So sánh kết quả giữa 02 mật độ ương cho thấy ao thí nghiệm với mật độ 200 con/m2 đạt năng suất trung bình là 4.585,53 kg/1.000m2 cao hơn các ao thí nghiệm ở mật độ 150 con/m2 là 3540kg/1.000m2 và có hiệu quả kinh tế cao hơn so với ao đối chứng (P<0,05). Ứng dụng công nghệ MNO đã đảm bảo cung cấp tốt hơn hàm lượng oxy cho ao nuôi, và cũng góp phần giảm tiêu thụ điện trong vận hành hệ thống cung cấp oxy cho ao nuôi từ 3,56-11,85% so với ao đối chứng. Việc ứng dụng công nghệ MNO trong ao ương cá tra giai đoạn từ cá hương đến cá giống đã cho thấy những kết quả tích cực.
I. GIỚI THIỆU
Trong nuôi trồng thủy sản, để tăng hàm lượng oxy hòa tan người ta thường sử dụng thiết bị sục khí đưa không khí nén vào nước ở một độ sâu nhất định. Các bọt khí hình thành (có kích thước từ vài mm đến cm) sẽ trao đổi oxy với nước trong quá trình di chuyển từ phía dưới của cột nước lên trên mặt nước rồi vỡ ra khi tiếp xúc với không khí. Kích thước bọt khí càng lớn, tốc độ di chuyển càng nhanh do đó hiệu suất làm giàu oxy hòa tan cho môi trường nước ao không cao nếu như bọt khí không đủ mịn. Công nghệ tạo bọt khí cỡ micro hoặc nano khắc phục được những điểm yếu này do tạo ra bọt khí có kích thước siêu nhỏ, cỡ vài trăm nm đến 40 μm (Tsuge. 2014). Bọt khí cỡ micro có tốc độ di chuyển rất chậm trong môi trường nước. Nếu đường kính của bọt khí là 10 μm thì phải mất tới 60 phút chúng mới di chuyển được khoảng 20 cm trong cột nước. Thêm vào đó, kích thước bọt khí càng nhỏ thì áp suất bên trong càng cao. Khi kích thước bọt khí giảm từ 1 μm xuống 100 nm (nhỏ hơn 10 lần) thì áp suất bên trong tăng từ 3,87 lên đến 29,7 atm. Nhờ vậy mà các chất khí bên trong bọt khí trong đó có oxy sẽ hòa tan vào môi trường nước một cách dễ dàng hơn. Công nghệ Micro bubles lần đầu tiên được nghiên cứu thử nghiệm trong nuôi trồng thủy sản tại Nhật Bản tại các mô hình nuôi hàu điệp quạt. Theo đó, tốc độ tăng trưởng của các đối tượng nuôi được cải thiện do đảm bảo hàm lượng ôxy hòa tan luôn ở mức tối ưu trong suốt quá trình nuôi.
Ở Việt Nam, nghiên cứu ứng dụng công nghệ Micro-nano trong nuôi tôm được Công ty TNHH Công nghệ HTC bắt đầu thực hiện năm 2014. Đến nay, Công ty TNHH Công nghệ HTC đã nghiên cứu và chế tạo thành công thiết bị tạo bọt khí cỡ nhỏ và siêu nhỏ bằng nhựa gọi là Micro-Nano bubble Oxygen (MNO) và đã được ứng dụng nuôi thử nghiệm tại nhiều cơ sở ở một số vùng nuôi và cũng đã thu được các kết quả ban đầu rất khả quan (Hoàng Tùng, 2016). Từ đầu năm 2016, Công ty TNHH Công nghệ HTC hợp tác với Công ty TNHH Đầu tư Thủy sản Huy Thuận ở Bến Tre để sản xuất và giới thiệu sản phẩm này. Khi thử nghiệm ở ao nuôi tôm 5.000 m2, sử dụng 3 máy tạo MNO cho kết quả tốt, hàm lượng oxy hòa tan tối thiểu vào buổi sáng sớm ở mức trên 6 mg/L so với mức yêu cầu 4 mg/L. Việc luôn đảm bảo hàm lượng ôxy hòa tan giúp đối tượng nuôi không bị stress, khỏe mạnh và có tốc độ tăng trưởng tốt. Cùng đó, khi ứng sử dụng thiết bị MNO thì pH ổn định, màu nước ao khá bền trong suốt vụ nuôi. Hơn nữa, theo Công ty TNHH Công nghệ HTC thì công nghệ MNO khi được ứng dụng vào nuôi thủy sản sẽ mang lại một số lợi ích sau: tạo ra rất nhiều oxy là nhân tố hủy diệt các loại vi khuẩn và các loại nấm gây các bệnh nguy hiểm vật nuôi; tạo dư oxy làm kết lắng các loại phèn trong nước như phèn sắt, phèn nhôm và các kim loại nặng; trung hòa amoniac và các loại khí độc khác (phản ứng hóa học hoặc sinh hóa với sự tham gia của các vi khuẩn hiếu khí); giúp phát triển và kéo dài chu kỳ sinh trưởng của các loại tảo có lợi; giúp các loại vi khuẩn hiếu khí có lợi phát triển tốt. Như vậy, máy MNO có nhiều tính ưu việt có thể hỗ trợ và ứng dụng tốt cho việc nuôi thủy sản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Công nghệ bọt khí MNO có thể xem là một trong các giải pháp tối ưu giúp người nuôi trồng thủy sản thành công.
Nhu cầu cá tra giống cho nuôi thương phẩm của Đồng bằng sông Cửu Long có thể cần khoảng 3 tỷ cá giống. Hiện tại, có khoảng 4.440 hộ ương giống với diện tích khoảng 2.000 ha. Tỉ lệ sống thấp vào cuối giai đoạn ương, trung bình đạt 13%. Việc thiết kế hệ thống ương đóng vai trò quan trọng, góp phần gia tăng tỷ lệ sống ở giai đoạn ương. Công nghệ nuôi tuần hoàn là giải pháp sẽ mang lại hiệu quả hơn so với công nghệ cũ về mặt an toàn sinh học, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nâng cao sản lượng, tỷ lệ sống và chất lượng cá giống; nhưng công nghệ này lại khá tốn kém. Việc nghiên cứu cải tiến quy trình sản xuất giống và ương cá giống là cần thiết nhằm cung cấp đủ cá tra giống có chất lượng cho nuôi thương phẩm. Việc sử dụng máy MNO để bố trí cải thiện hệ thống ương sẽ được xem như một giải pháp tốt cho việc hoàn thiện quy trình ương cá bột đến cá hương.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu
Cá tra hương có nguồn gốc Trung tâm Quốc gia Giống thủy sản nước ngọt Nam Bộ thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.
Máy Micro-Nano Bubble Oxygen công nghệ Nhật Bản được cung cấp bởi Công ty TNHH Đầu tư Thủy sản Huy Thuận.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm ương cá tra hương lên giống ứng dụng công nghệ Micro-Nano Bubble Oxygen theo mật độ ương. Sử dụng máy MNO (4HP; 3phase; Công suất: 70 m3/giờ) với khả năng cung cấp 20,5kg Oxy/ngày trong ao đất diện tích 2.000 m2,cụ thể:
- Mật độ 150 con/m2: gồm 3 ao nuôi thí nghiệm công nghệ Micro-nano Bubble Oxygenvà 1 ao nuôi đối chứng.
- Mật độ 200 con/m2: gồm 3 ao nuôi thí nghiệm công nghệ Micro-nano Bubble Oxygenvà 1 ao nuôi đối chứng.
- Thời gian thực hiện: tháng 8/2018-2/2019 tại Farm nuôi thủy sản An Điền-Thạnh Phú-Công ty TNHH Đầu tư Thủy sản Huy Thuận.
- Kỹ thuật áp dụng giai đoạn ương từ cá hương lên giống: Các bước thực hiện quy trình công nghệ ương cá bột lên cá hương, gồm:
+ Cải tạo và chuẩn bị ao ương: Thực hiện quy trình cải tạo, xử lý đáy ao, chuẩn bị nước ao trước khi thả giống, chuẩn bị vật tư tiến hành vụ nuôi. Tiến hành nạo vét để loại bỏ hết chất thải (bùn đen) ở đáy ao, tiến hành diệt tạp và khử trùng đáy ao với vôi CaO và Chlorine. Lắp hệ thống cung cấp oxy hòa tan cho mỗi ao thí nghiệm (2.000m2), lắp 01 dàn quạt 15 cánh (2 typ, moto 3HP) và 1 máy MNO (4HP, 3 phase, 70m3/giờ); ao đối chứng (2.000m2) lắp 01 dàn quạt 15 cánh (2 typ, moto 3HP).
+ Chuẩn bị nước trước khi thả giống: Nước được lấy vào ao nuôi bằng máy MNO qua túi lọc 2 lớp vải kate trước lúc thả giống 4 ngày, mực nước cấp đạt 1,2 + 1,4m. Các yếu tố môi trường cần đạt trước khi thả giống (pH 7,5-8,5; độ trong 30-50cm; độ kiềm ≥ 85mg CaCO3/L).
+ Chăm sóc và quản lý: Sử dụng thức ăn công nghiệp.Cách cho cá bột ăn:Tính theo trọng lượng tổng đàn cá hương; Từ 1-20 ngày tuổi (1-5g) cho ăn 10% trọng lượng thân, từ 21-40 ngày tuổi (5-15g) cho ăn 7% trọng lượng thân, , từ 41-60 ngày tuổi (15-35g) cho ăn 5% trọng lượng thân, lớn hơn 60 ngày tuổi (>35g) cho ăn 3% trọng lượng thân
+ Thời gian chạy quạt và máy MNO: Từ 1-20 ngày tuổi, sáng chạy 3-7h chiều chạy 14-15h, từ 21-40 ngày tuổi, sáng chạy 1-7h chiều chạy 14-15h, từ 41-60 ngày tuổi, sáng chạy 24-7h chiều chạy 14-15h, lớn hơn 60 ngày tuổi, sáng chạy 22-7h chiều chạy 14-15h. Tùy theo tuổi cá, tình hình thời tiết, mật độ thả, sức khỏe cá mà điều chỉnh số giàn quạt, giờ chạy quạt hợp lý, tránh để hàm lượng oxy <4 mg/L. Bên cạnh đó các yếu tố môi truờng ao nuôi luôn được duy trì: pH 7,5-8,5; độ kiềm ≥ 85mgCaCO3/L; ammonia tổng nhỏ hơn 0,3mg/L; Nitrite ≤ 0,3mg/L và H2S ≤ 0,03 mg/L.
- Quản lý nước ao: Thường xuyên quan trắc và kịp thời bổ sung bù lượng nước mất đi (mức nước tối thiểu đảm bảo đạt 1,2m). Định kỳ sử dụng men vi sinh từ 1-30 ngày tuổi với liều lượng 2 –5 g/kg TA, Pro 2, Top S từ 1 - 60 ngày tuổi tuổi với liều lượng 2 –5 g/kg Hadaclean liều lượng 2-5g/kg TA vào các ngày 19,29, 39, 49 và liều lượng 10g/kg TS vào các ngày 20, 30, 40, 50, 60. Bên cạnh đó, sử dụng định kỳ mật rỉ đường + EM, 5 ngày sử dụng lần và sử dụng lúc 20 - 21 giờ.
- Quan trắc môi trường nước và sức khỏe cá nuôi: Theo dõi các yếu tố hiện trường pH, nhiệt độ, hàm lượng oxy hòa tan do cán bộ kỹ thuật đo hàng ngày vào lúc sáng sớm và chiều bằng phương pháp truyền thống (testkit pH: testkit SERA và Nhiệt độ: Nhiệt kế rượu 0-50oC) và DO đo bằng máy cầm tay. Bên cạnh đó, để hỗ trợ cho việc quản lý chăm sóc ao nuôi trong suốt vụ nuôi, tiến hành thu mẫu môi trường và mẫu cá với tần suất thu mẫu 1 tuần/lần, gồm các chỉ tiêu: N-NH3; N-NO2; N-NO3 (phương pháp: 4500-NH3 F-APHA); Độ kiềm (phương pháp: TCVN 6636-1-2000); Aeromonas tổng số (phương pháp: Trải đĩa trên RS), Edwardsiella ictaluri (phương pháp: Trải đĩa BA, tăng sinh dịch lỏng và chạy PCR) và Salmonella sp. (phương pháp: Trải đĩa trên Salmonella chrome agar). Tất cả các mẫu này được thu mẫu chuyển về Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II để phân tích.
2.3. Thu thập và xử lý số liệu
- Quản lý số liệu và cơ sở dữ liệu: Các số liệu đo môi trường nước (pH, nhiệt độ, DO) được lưu trữ bằng sổ nhật ký của trang trại nuôi. Các số liệu kiểm tra về sức khỏe cá nuôi và yếu tố môi trường khác NH3-N, NO2-N, Độ kiềm được thu định kỳ 1 tuần/lần để hỗ trợ cho việc chăm sóc cá nuôi. Các thông tin về sử dụng nguyên, nhiên liệu, thu hoạch cũng được lưu trữ bằng sổ nhật ký của trang trại nuôi. Tất cả các số liệu liên quan trong sổ nhật ký từng ao nuôi (6 ao thí nghiệm, 2 ao đối chứng) đều được lưu trữ trong sổ nhật ký, được nhập vào cơ sở dữ liệu trên MS. Excel 2010 để phục vụ cho việc phân tích đánh giá tổng kết mô hình.
- Phân tích số liệu: Sử dụng phần mềm MS. Excel 2010 và SPSS 20 để nhập và xử lý số liệu. Áp dụng một số phương pháp phân tích số liệu cơ bản sau:
+ Phương pháp phân tích thống kê: Sử dụng các chỉ tiêu số trung bình, độ lệch chuẩn, phân tích One-way Anova nhằm đánh giá và so sánh các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật và môi trường giữa các ao thí nghiệm và ao đối chứng.
+ Phương pháp phân tích kinh tế: Sử dụng phân tích các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận để so sánh hiệu quả kinh tế giữa các ao thí nghiệm và ao đối chứng.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả ứng dụng công nghệ MNO trong ương cá tra hương lên giống ở mật độ 150 con/m2
3.1.1. Đánh giá diễn biến một số chỉ tiêu môi trường
Diễn biến Nhiệt độ: Nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng, thành thục và phát triển của động vật thủy sản. Theo (bảng 1) sự biến động nhiệt độ giữa các nghiệm thức không có sự chênh lệch lớn. Nhiệt độ trung bình buổi sáng (27,5-27,90C), buổi chiều là (29,2-29,90C). Khoảng biến động nhiệt độ không quá 20C. Nhiệt độ buổi chiều luôn cao hơn buổi sáng là do ảnh hưởng của ánh nắng mặt trời và thời điểm đo trong ngày lúc 14h (thời gian nhiệt độ cao nhất trong ngày). Theo QCVN 02-20:2014/BNNPTNT thì nhiệt độ thích hợp cho nuôi cá tra là 25-320C, không có sự chênh lệch lớn về nhiệt độ giữa ao đối chứng ao thí nghiệm.
Diễn biến độ pH nước: Độ pH của các ao ương biến động trong phạm vi 7,7 – 8,6 trong suốt quá trình ương và phù hợp cho cá tăng trưởng và phát triển (riêng trong ao đối chứng có 01 đợt pH giảm xuống đến 7,1 vào buổi sáng nhưng chưa ảnh hưởng đến cá nuôi) (Hình 1). Chỉ số pH ở các ao thí nghiệm và ao đối chứng không dao động lớn và nằm trong ngưỡng cho phép cá tra sinh trưởng và phát triển, giá trị cho phép theo QCVN 02-20:2014/BNNPTNT với chỉ tiêu pH là 7-9.
Diễn biến độ hàm lượng oxy hòa tan (DO): Ở ao đối chứng, hàm lượng Oxy hòa tan vào buổi sáng có những thời điểm về đến mức 4mg/l là giới hạn thấp cho cá ương phát triển nhưng chưa ảnh hưởng đến cá ương, khá thấp so với các ao sử dụng thiết bị nano vào buổi sáng từ 5,9 – 7,3mg/l (Hình 2).
Trung bình hàm lượng oxy hòa tan buổi sáng ở ao đối chứng là 5,22 mg/l thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với các ao sử dụng thiết bị Nano là 7,26 – 7,4mg/l p<0,05). Tương tự, hàm lượng oxy hòa tan buổi chiều của ao đối chứng trung bình là 6,67mg/l thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với các ao sử dụng thiết bị nano trung bình là 8,37 – 8,75mg/l (p<0,05).
Hàm lượng oxy hòa tan trung bình ở ao đối chứng buổi sáng và buổi chiều thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với các ao sử dụng thiết bị Nano. Điều này đã cho thấy ý nghĩa tăng cường oxy hòa tan của thiết bị, mặc dù năng lượng để vận hành thiết bị của ao đối chứng là 1350 kwh cao hơn so với ao đối chứng cùng thời gian ương (65 ngày) là 1.190 kwh (tiết kiệm 11,85%). Ngoài ra, ở các ao sử dụng thiết bị nano ương 69 ngày có năng lượng sử dụng là 1302 Kwh (tiết kiệm được 3,56%) .
3.1.2. Đánh giá thông số kinh tế-kỹ thuật chính
Sau 65-70 ngày ương, tỷ lệ sống của ao đối chứng là 80% thấp hơn so với trung bình của các ao đối chứng là 87,43%. FCR của ao đối chứng là 0,89 cao hơn trung bình các các ao đối chứng là 0,82 (giảm 7,93% so với ao đối chứng) (Bảng 2).
3.2. Kết quả ứng dụng công nghệ MNO trong ương cá tra hương lên giống ở mật độ 200 con/m2
3.2.1. Đánh giá diễn biến một số chỉ tiêu môi trường
Diễn biến nhiệt độ nước:Nhiệt độ nước dao động trong khoảng 27,7 – 29,90C (Bảng 3), với khoảng biến động nhiệt độ như hiện nay cũng phù hợp với giá trị cho phép trong QCVN 02-20:2014/BNNPTNT để cá tra sinh trưởng và phát triển.
Diễn biến độ pH nước: Độ pH của các ao ương biến động trong phạm vi 7,3 – 8,6 trong suốt quá trình ương và phù hợp cho cá tăng trưởng và phát triển (Hình 3). Giá trị pH vẫn nằm trong ngưỡng cho phép của QCVN 02-20:2014/BNNPTNT để cá tra sinh trưởng và phát triển.
Diễn biến độ hàm lượng oxy hòa tan (DO): Ở ao đối chứng, hàm lượng Oxy hòa tan vào buổi sáng có những thời điểm về đến mức 4mg/l là giới hạn thấp nhất cho cá phát triển, khá thấp so với các ao sử dụng thiết bị nano vào buổi sáng từ 5,3 – 5,4mg/l (Hình 4). Trung bình hàm lượng oxy hòa tan buổi sáng ở ao đối chứng l là 5,46 mg/l thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với các ao sử dụng thiết bị nano là 6,92 – 7,35 mg/l p<0,05). Tương tự, hàm lượng oxy hòa tan buổi chiều của ao đối chứng trung bình là 6,58 mg/l thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với các ao sử dụng thiết bị nano trung bình là 8,21 – 8,37mg/l (p<0,05).
Điều này đã cho thấy ý nghĩa tăng cường oxy hòa tan của thiết bị, mặc dù năng lượng để vận hành thiết bị của ao đối chứng là 1.335 kwH cao hơn so với trung bình năng lượng sử dụng cho các ao sử dụng thiết bị nano cùng thời gian ương 65 ngày là 1.155 Kwh (tiết kiệm 13,48%). Ngoài ra, các ao ương có thời gian ương 70 ngày có năng lượng sử dụng là 1.295Kwh (tiết kiệm được 3%).
3.2.2. Đánh giá thông số kinh tế-kỹ thuật chính
Sau 65-70 ngày ương, tỷ lệ sống của ao đối chứng là 80% thấp hơn so với trung bình của các ao đối chứng là 87,43%. FCR của ao đối chứng là 0,9 cao hơn trung bình các các ao đối chứng là 0,84 (giảm 7,03% so với ao đối chứng). (Bảng 4).
3.3. So sánh kết quả về ứng dụng công nghệ MNO trong ương cá tra hương lên giốnggiữa 2 mật độ ương
So sánh các chỉ tiêu kỹ thuật chính cho thấy: hệ số FCR ở các mật độ khác nhau không có ý nghĩa thống kê giữa ao đối chứng và ao thí nghiệm (p>0,05); Các chỉ tiêu khác như tỷ lệ sống, năng suất, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận thì giữa ao đối chứng và ao thí nghiệm khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Với các ao thí nghiệm thì năng suất và lợi nhuận ở hai mật độ khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05).
Qua so sánh kết quả giữa các ao đối chứng và ao thí nghiệm cho thấy các chỉ tiêu năng suất và lợi nhuận ở mật độ ương 200 con/m2 tốt hơn mật độ 150 con/m2 mặc dù FCR và tỷ lệ sống khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
3.4. Thảo luận
Hàm lượng oxy hòa tan trong các ao ương đối chứng biến động trong phạm vi 5,3 – 5,4mgthấp hơn so với các ao thí nghiệm 7.13-7.40 mg/L (P<0.05) cao hơn giá trị cho phép là ≥2 mg/L của QCVN 02-20:2014/BNNPTNT. Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Sáng & ctv (2018) thì ương cá tra trên bể xi măng được lắp ống khí nano dọc chính giữa bể ương và sục khí đã luôn đảm bảo hàm lượng oxy trong mức 4-6mg/L, trong khi nghiên cứu sử dụng hệ thống thổi khí của Đinh Thị Thủy (2016) thì hàm lượng DO ở mức 4,0-6,7 mg/L. Những kết quả nghiên cứu của các tác giả cũng khá tương đồng với kết quả nghiên cứu này như ao đối chứng, nhưng thấp hơn ao thí nghiệm ứng dụng MNO.
Theo Dương Nhựt Long (2004) ương cá tra trong ao đất sau 60 ngày ương cá tỉ lệ sống trung bình 40 – 60%. 85% (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2004) 76,2% (Lê Lệ Hiền, 2008) và năm 2011 là 74 - 77,3% ( Phạm Thị Kim Oanh và Trương Hoàng Minh). Với nghiên cứu này, sau 65-70 ngày ương tỷ lệ sống của ao đối chứng là 78,31% thấp hơn so với ao thí nghiệm là 86,64%. Tỷ lệ sống của cá không có sự khác biệt giữa ao thí nghiệm ứng dụng MNO với mật độ 150 và 200 con/m2.
Kết quả thí nghiệm cũng cho thấy các chỉ số chính về hiệu quả sản xuất như năng suất, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận đã có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các ao thí nghiệm và ao đối chứng (P<0,05), ao thí nghiệm ứng dụng MNO với mật độ ương 200 con/m2 có năng suất và lợi nhuận tốt hơn ao mật độ 150 con/m2. Mặc dù, tỷ lệ sống của cá giống không có sự khác biệt giữa hai loại mật độ thí nghiệm, nhưng xem xét các yếu tố khác về kinh tế thì mật độ ương 200 con/m2 cho các thông số tốt hơn. Tuy nhiên, theo Nguyễn Văn Sáng & ctv. (2018) thì người sản xuất có thể lựa chọn ương mật độ cao để có sản lượng cá hương nhiều hơn, nhưng với mật độ dày thì sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng của cá. Quy trình công nghệ nuôi ương cá tra hương lên giống khi ứng dụng công nghệ MNO tỷ lệ sống (tăng 11% so với ao không ứng dụng MNO), con giống sạch bệnh và không nhiễm kháng sinh. Như vậy, lợi nhuận của người sản xuất giống và người nuôi cá sẽ tăng lên. Bên cạnh đó, khi ứng dụng công nghệ MNO vào nuôi thủy sản, các chất cặn bẩn được đẩy lên trên bề mặt ao nuôi giúp dễ dàng loại bỏ, tăng độ trong của nước. Cùng đó, tảo khuê phát triển tốt, làm nguồn thức ăn tự nhiên cho vật nuôi. Việc áp dụng công nghệ này cũng góp phần giảm đáng kể việc thay nước cho ao nuôi, và gián tiếp giảm ô nhiễm môi trường và bảo vệ môi trường nước vùng nước xung quanh (Hoàng Tùng, 2016).
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
4.1. Kết luận
Việc ứng dụng công nghệ Micro-Nano Bubble Oxygen trong ao ương cá tra giai đoạn từ cá hương đến cá giống đã cho thấy những kết quả tích cực. Thiết bị MNO đã cung cấp và đảm bảo hàm lượng oxy hòa tan ở mức khá cao khoảng 7.13-7.4mg/L và góp phần nâng cao tỷ lệ sống của cá trong các ao ứng dụng MNO so với ao không ứng dụng. Sau thời gian 65-70 ngày ương nuôi, hiệu quả sản xuất của việc ứng dụng MNO đã cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê rõ ràng giữa ao đối chứng và ao thí nghiệm. Ao ương ứng dụng MNO thả với mật độ 200con/m2 đạt được các chỉ số năng suất, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận cao hơn các ao còn lại; với lần lượt là 1021, 30 và 0.07. Bên cạnh cung cấp tốt hơn hàm lượng oxy cho ao nuôi, thì việc ứng dụng công nghệ MNO cũng góp phần giảm tiêu thụ điện trong vận hành hệ thống cung cấp oxy cho ao nuôi từ 13.48% so với ao đối chứng.
4.2. Đề xuất
Cần tiếp tục thực hiện ứng dụng công nghệ MNO trong ương cá tra giai đoạn hương đến giống trong mùa khô từ tháng 1-6 và thực hiện mô hình tại vùng sản xuất giống trọng điểm tại Đồng Tháp, An Giang và Long An và ương từ cá hương lên cá giống là 200 con/m2.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Đinh Thị Thủy, 2016. Báo cáo tổng kết đề tài “Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật nâng cao tỷ lệ sống và chất lượng cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) từ bột lên giống ở vùng ĐBSCL, giai đoạn 2014 – 2016”. Báo cáo khoa học, Viện Nghiên nuôi trồng Thủy sản II, Hồ Chí Minh.
Nguyễn Văn Sáng, Trần Hữu Phúc, Hà Thị Ngọc Nga, Nguyễn Thị Hồng Nhung, Nguyễn Huỳnh Duy, Nguyễn Thế Vương, Đặng Văn Trường, 2018. Tăng trưởng và tỷ lệ sống cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ương trên bể xi măng từ cá bột đến cá hương 27 ngày tuổi. Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long, số 12 – tháng 12/2018, 3-12.
Dương Nhựt Long, 2004. Giáo trình kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt. Đại học Cần Thơ.
Phạm Thị Kim Oanh và Trương Hoàng Minh, 2011. Thực trạng nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) có liên kết và không có liên kết ở ĐBSCL. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, Quyển 20b (2011): 48-58.
Lê Lệ Hiền, 2008. Phân tích tình hình cung cấp giống và sử dụng giống cá tra (Pangasianodon hypopthalmus) ở Đồng bằng sông Cửu Long. Luận văn tốt nghiệp cao học. Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
Nguyễn Thanh Phương, Phạm Minh Đức, Vũ Nam Sơn và Trần Văn Bùi 2004. Báo cáo tổng quan ứng dụng công nghệ nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm thủy sản (Tôm càng xanh, cá tra, basa và cá rô phi) ở tỉnh An Giang. Sở Khoa học & Công nghệ An Giang và Khoa Thủy sản Đại học Cần Thơ.
Hoàng Tùng, 2016. Công nghệ Micro Nano Buble: giải pháp cho nghề nuôi tôm? Mekongshrimp.com.
Nguyễn Thanh Phương & Nguyễn Anh Tuấn, 2016. Nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở Đồng bằng sông Cửu Long: Thành công và Thách thức trong phát triển bền vững. Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ, Cần Thơ.
Nguyễn Văn Ngô, 2009. Phân tích ngành hàng cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở tỉnh Đồng Tháp. Luận văn Cao học, chuyên ngành NTTS, Đại học Cần Thơ, Cần Thơ.
Nguyễn Văn Sáng, Nguyễn Văn Hảo, Phạm Đình Khôi, Trịnh Quốc Trọng, Ngô Hồng Ngân, Nguyễn Thế Vương, Nguyễn Thị Đang, Nguyễn Quyết Tâm, Trịnh Quang Sơn, 2011. Chuyển giao công nghệ sản xuất giống cá tra có chất lượng di truyền cao về tính trạng tăng trưởng cho các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Báo cáo khoa học tổng kết dự án, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II, Hồ Chí Minh.
Tổng cục Thủy sản, 2017a. Tổng quan nghề nuôi cá tra giai đoạn 2010-2017, định hướng và giải pháp phát triển bền vững. Tài liệu phục vụ Hội nghị Phát triển chuỗi sản xuất cá tra bền vững. Bộ NN&PTNT, Hà Nội.
Tổng cục Thủy sản, 2017b. Báo cáo hiện trạng sản xuất giống cá tra. Bộ NN&PTNT, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
Belton, B., Le, S.X., Little, D.C., 2008. The Development and Status of Catfish Seed Production Systems in Vietnam. PMI2 project report. (p. 49). Institute of Aquaculture, The University o Stirling, Stirling.
Belton, B., Little, D.C., Sinh, L.X., 2009. User and producer perceptions of Pangasius seed quality in Vietnam. Master thesis, in writing, p.12.
Bui, T.M., Phan, T.L., Ingram, B.A., Nguyen, T.T.T., Gooley, G.J., Nguyen, H.V., De Silva, S.S., 2010. Seed production practices of striped catfish, Pangasianodon hypophthalmus in the Mekong Delta region, Vietnam. Aquaculture306 (1-4), 92–100.
Bush, S. R., Khiem, N. T., & Chau, N. M., 2010. Is there a business case for small-holders in Vietnamese Pangasius? Aquaculture Asia Magazine, XV(4), 18–23
De Silva, S. S., & Nguyen, P. T., 2011. Striped catfish farming in the Mekong Delta, Vietnam: a tumultuous path to a global success. Reviews in Aquaculture, 3(2), 45–73.
Le, S.X., Le, H.L., 2010. Supply and use of catfish (Pangasianodon hypophthalmus) seed in the Mekong Delta of Vietnam. Aquacuture Asia MagazineXV(1), 26–33.
Nguyen, P.T., Hao, N.V, Tam, B.M., Lam, P.T., Son, V.M., Nhut, N., De Silva, S.S., 2011. Better Management Practices for Striped Catfish Farming in the Mekong Delta-Viet Nam. Collaboration for Agriculture and Rural Development (CARD) project (001/07VIE). Aquaculture (p. 92). Bangkok. Retrieved from http://library.enaca.org/inland/catfishbmps/catfish_bmp_version3_final.pdf.
Phan, T. L., Bui, T. M., Nguyen, T. T. T., Gooley, G. J., Ingram, B. A., Nguyen, H. V., De Silva, S. S., 2009. Current status of farming practices of striped catfish, Pangasianodon hypophthalmus in the Mekong Delta, Vietnam. Aquaculture, 296(3-4), 227–236
Phan, T.L., 2014. Sustainable development of export-orientated farmed seafood in Mekong Delta, Vietnam. PhD thesis, The University of Stirling, Stirling.
Hideki Tsuge, 2014. Micro- and Nanobubbles: Fundamentals and Applications. 1st Edition. Jenny Stanford Publishing, Singapore.
Ohnari, H., 2007. Micro bubble technology, its Characteristics and Possibilities, Journal of MMIJ Vol. 123 (2007), No.3 pp.89-96
Nakayama, T., 2006. Improvement of Oyster Cultivation by Micro-Bubbles, session-.14, 5th Conference on SymbioticEnvironmental Systems Engineering of Yamaguchi University (2006)
Marui, T., 2013. An Introduction to Micro/nano-Bubbles and their Applications. Systemics, cybernetics and informatics volume 11- number 4 – year 2013, ISSN: 1690-4524.