Kết quả thực hiện đề án phát triển công nghiệp tỉnh Bến Tre giai đoạn 2016 – 2020 và hướng đến năm 2030 của ngành khoa học và công nghệ
Ngày 17/8/2016, Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre Ban hành Đề án phát triển công nghiệp tỉnh Bến Tre giai đoạn 2016 – 2020 và hướng đến năm 2030 (Đề án) nhằm đánh giá kết quả thực hiện Đề án của ngành Khoa học và Công nghệ (KH&CN), Sở KH&CN đã tổ chức đánh giá, xây dựng và ban hành báo cáo số 1106/BC-SKHCN ngày 27/8/2020 Tổng kết Đề án. Nhờ lồng ghép nội dung của Đề án vào trong kế hoạch định kỳ của Sở KH&CN nên đạt được các kết quả khả quan trên 4 bình diện cốt lõi của lĩnh vực KH&CN.
Nghiên cứu, ứng dụng KH&CN
Tập trung nghiên cứu giải pháp xây dựng Thương hiệu làm Công cụ Marketing các sản phẩm chủ lực và du lịch tỉnh Bến Tre như đã nghiên cứu, điều tra các cơ hội và thách thức liên quan, xác định những điểm mạnh, điểm yếu và lợi thế cạnh tranh của tỉnh trong lĩnh vực du lịch và các sản phẩm sản xuất và chế biến, xác định thị trường và người tiêu dùng nước ngoài có tiềm năng du lịch cao nhất và đề xuất xây dựng kế hoạch phát triển nhóm các sản phẩm, dịch vụ kể cả du lịch của Bến Tre, thành một thương hiệu phù hợp với chiến lược phát triển của tỉnh và xu hướng thị trường nước ngoài.
Nghiên cứu hoàn thiện và ứng dụng công nghệ luôn luôn được ngành KH&CN chú trọng, đứng đầu là công nghệ chế biến các sản phẩm từ dừa như nghiên cứu và thiết kế chế tạo hệ thống thiết bị cắt, tách gáo và làm sạch vỏ nâu cơm dừa, gồm: cắt, tách gáo và làm sạch vỏ nâu cơm dừa với năng suất 1.800 trái/giờ và tăng năng suất 3 lần so với thủ công. Chuyển giao, ứng dụng công nghệ không gia nhiệt chiết tách dầu dừa tinh khiết công suất đạt 5.000 lít/h, nâng giá trị gia tăng cao gấp 1,5 lần giá trị dầu dừa nguyên chất sản xuất bằng phương pháp ép copra. Nghiên cứu thiết kế và chế tạo thành công thiết bị và quy trình sản xuất sản phẩm nước rửa tay dưỡng da từ dầu dừa và các chất bổ sung (màu sắc, hương thơm, các hoạt chất sinh học khác) có nguồn gốc từ tự nhiên có khả năng sát khuẩn tốt, không gây kích ứng da và có thể dưỡng da tay; sản phẩm tự phân hủy, không gây độc hại môi trường sau khi sử dụng; đạt tiêu chuẩn của sản phẩm mỹ phẩm theo quy định và đã chuyển giao cho doanh nghiệp tiếp nhận đưa vào thương mại hóa, góp phần đa dạng hóa sản phẩm từ dừa. Nghiên cứu đa dạng hóa các sản phẩm chăm sóc cá nhân từ nguồn nguyên liệu dầu dừa tỉnh Bến Tre như sữa tắm, dầu gội, các sản phẩm chăm sóc cá nhân khác. Nghiên cứu tạo ra loại hình sản phẩm composite từ xơ dừa với 3 mẫu: mặt tựa ghế, tấm lợp dạng sóng và mẫu cong 3 chiều. Nghiên cứu công nghệ sản xuất màng cellulose sinh học từ nước quả dừa khô ứng dụng làm bao gói thực phẩm và sản xuất giấy bao bì, đóng gói từ nguồn nguyên liệu cây dừa (vỏ thân cây dừa, tàu dừa, chỉ xơ dừa). Cải tiến công nghệ trong sản xuất bánh phồng cho làng nghề Sơn Đốc.
Song song với đó, các công nghệ thuộc các ngành nghề khác được đầu tư nghiên cứu, chẳng hạn: Sản xuất thành công chả cá sạch theo công nghệ tạo gel từ cá đù, cá đổng và cá mối. Quá trình thử nghiệm sản xuất được áp dụng hai mô hình: Thời gian (3 giờ định hình) và nhiệt độ (37-390C) phù hợp với từng quy mô áp dụng. Chả cá có độ dai ổn định dao động từ 8N-12N và thành phần đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và còn có các sản phẩm phụ từ cá như phân cá và nước chiết dinh dưỡng. Công bố tiêu chuẩn cơ sở, vệ sinh an toàn thực phẩm cho sản phẩm nấm Đông trùng hạ thảo sản xuất tại Bến Tre.
Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin trong truy xuất nguồn gốc sản phẩm đối với 08 sản phẩm chủ lực của tỉnh. Ứng dụng công nghệ GIS quản lý quy hoạch và phát triển hệ thống kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Quản trị rủi ro trong chuỗi cung ứng các doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bến Tre.
Phát triển công nghệ
Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng nguồn tài chính hỗ trợ từ Quỹ phát triển KH&CN tạo động lực cho doanh nghiệp thúc đẩy, phát triển sản xuất, kinh doanh. Trong đó, hỗ trợ cho vay dự án Đầu tư xây dựng hệ thống lọc nước RO công suất 40m3/h- Nhà máy nước An Hiệp – N.I.D cung cấp nước ngọt phục vụ sinh hoạt cho người dân vào mùa hạn mặn. Xây dựng trung tâm sơ chế và hoàn thiện công nghệ khoan lấy nước dừa để đảm bảo chủ động nguồn nguyên liệu tại công ty và tận dụng nguồn nước dừa thu được để phát triển sản phẩm mới. Đầu tư thiết bị công nghệ sản xuất sản phẩm dừa sấy giòn nhằm đa dạng hóa các sản phẩm chế biến từ dừa. Đầu tư hệ thống thiết bị sấy lúa, tách màu gạo công suất 80 tấn/mẻ và sản xuất dưa lưới ứng dụng công nghệ cao. Đầu tư kho lạnh xử lý nhiệt và hệ thống máy gọt vỏ định hình trái dừa tươi xuất khẩu nhằm cơ giới hóa công đoạn sản xuất để nâng cao hiệu quả lao động, giảm chi phí lao động cho công đoạn gọt định hình quả dừa, áp dụng cải tiến từ 100% gọt tay sang 80% gọt bằng máy, tiết kiệm chi phí sản xuất. Đồng thời tạo hình sản phẩm được đồng đều hơn và năng xuất cao hơn gọt thủ công (công xuất 1.500 trái/ngày 8 tiếng gấp 3 lần công nhân gọt thủ công). Việc đầu tư nhà máy đóng gói sẽ khép kín được quy trình xử lý nhiệt để phù hợp cho sản phẩm, đồng thời tăng cường khả năng kiểm soát chất lượng sản phẩm đầu ra theo tiêu chuẩn HACCP, nâng tổng số dự án hỗ trợ từ Quỹ phát triển KH&CN đang triển khai là 11 dự án, tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao như sữa dừa đóng lon, phân bón hữu cơ từ các phụ phẩm, mụn dừa ép viên, mặt nạ dừa, mặt nạ collagen, dầu ủ tóc từ dừa, dầu gội từ dừa, gạch không nung, gạo sạch... gia tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển công nghệ mà còn hỗ trợ 19 lượt doanh nghiệp tham gia các sự kiện thuộc Chương trình Phát triển thị trường KH&CN. Cụ thể: Năm 2017, hỗ trợ 05 doanh nghiệp tham gia chợ thiết bị, công nghệ nông nghiệp Cần Thơ với số tiền 27,5 triệu đồng; năm 2018, đã hỗ trợ 03 doanh nghiệp tham gia Chương trình Phát triển thị trường KH&CN vùng Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây nguyên và 04 dự án khởi nghiệp tham gia trưng bày, giới thiệu mô hình/sản phẩm khởi nghiệp của tỉnh trong Ngày hội khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia tại Đà Nẵng; tổng kinh phí hỗ trợ 07 đơn vị là 105.000.000 đồng; Năm 2019, hỗ trợ 04 doanh nghiệp trưng bày tại hội chợ công nghệ và thiết bị vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại Cần Thơ và 03 dự án/doanh nghiệp tham gia Ngày hội khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia tại Quảng Ninh; tổng kinh phí hỗ trợ là 45.000.000 đồng và hỗ trợ 10 doanh nghiệp trưng bày sản phẩm Lễ ra mắt Không gian KN ĐMST trong khuôn khổ Lễ hội dừa với kinh phí 30 triệu đồng. Tổng cộng lũy kế đã hỗ trợ là 207.500.000 đồng.
Nâng cao năng suất
Nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là việc làm sống còn của các doanh nghiệp hiện nay, bắt kịp xu thế đó, Sở KH&CN đã kịp thời hỗ trợ 36 lượt doanh nghiệp tham gia dự án với các nội dung xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến (ISO 9001, ISO 22000, HACCP, Halal…), công cụ cải tiến năng suất chất lượng, chứng nhận sản phẩm phân bón chứng nhận phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, với tổng kinh phí hỗ trợ là 763.062 .500 đồng; vận động, hỗ trợ 04 tham gia Giải thưởng Chất lượng Quốc gia, trong đó có 02 doanh nghiệp đã được Hội đồng GTCLQG xét tặng Giải vàng, 02 doanh nghiệp vừa được Hội đồng sơ tuyển của tỉnh đề nghị xét tặng Giải vàng trong năm 2020.
Hàng năm, phát hành 12 Bản tin về Hàng rào Kỹ thuật trong thương mại (TBT) nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các nội dung cảnh báo của các nước thành viên WTO đến các doanh nghiệp có liên quan trên địa bàn tỉnh, hàng năm đăng hơn 500 tin cảnh báo và tin tức thị trường trên trang thông tin điện tử Chi cục. Bổ sung, cung cấp vào kho cơ sở dữ liệu 1451 Tiêu chuẩn Việt Nam có liên quan đến lĩnh vực nông sản, thủy sản.
Tổ chức 01 lớp đào tạo chuyên gia năng suất chất lượng về xây dựng và áp dụng công cụ cải tiến 5S. Số người tham dự là 12 người đến từ doanh nghiệp, sở ngành tỉnh. Hoạt động đào tạo chuyên gia năng suất chất lượng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong việc xây dựng và áp dụng công cụ cải tiến năng suất chất lượng, tăng khả năng cạnh tranh, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói riêng và cả nước nói chung. Triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001 vào hoạt động của toàn bộ cơ quan hành chính Nhà nước trên địa bàn tỉnh: đã triển khai xây dựng và áp dụng trên 100% đơn vị hành chính cấp xã. Đến cuối năm 2020, có 100% cơ quan hành chính cấp tỉnh, huyện, xã xây dựng, áp dụng và chuyển đổi Hệ thống quản lý chất lượng cho toàn bộ thủ tục hành chính theo phiên bản TCVN ISO 9001:2015.
Phát triển nhãn hiệu
Phát triển nhãn hiệu là hoạt động không thể thiếu của Sở KH&CN trong hoạt động thường xuyên với việc tiếp tục thực hiện Quyết định số 1062/QĐ-TTg ngày 14 tháng 6 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016- 2020 và Công văn số 3686/BKHCN-SHTT ngày 01 tháng 9 năm 2016 của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc hướng dẫn triển khai Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016-2020, Sở đã tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch triển khai Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ trên địa bàn tỉnh Bến Tre giai đoạn 2018 đến năm 2020. Đào tạo tập huấn về sở hữu trí tuệ: Sở chủ trì tổ chức 8 lớp, Sở phối hợp với các huyện, Hội Nông dân, Sở Nông nghiệp 36 lớp, có trên 1.500 lượt người tham dự.
Triển khai thực hiện 05 dự án thành phần thuộc: “Dự án Nâng cao năng suất chất lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ tỉnh Bến Tre giai đoạn 2013 – 2020”. Kết quả: có 01 chỉ dẫn địa lý đã được cấp văn bằng bảo hộ (“Cái Mơn” dùng cho sản phẩm Sầu riêng), 03 chỉ dẫn địa lý đang xây dựng.
Hỗ trợ xây dựng 20 nhãn hiệu cộng đồng, gồm: 07 nhãn hiệu chứng nhận (sản phẩm Tôm biển Bến Tre, Heo Mỏ Cày Nam, Xoài tứ quý Thạnh Phú, tôm biển Bến Tre, Gà tàu lai nòi Mỏ Cày Nam, sản phẩm nông nghiệp Giồng Luông); 13 nhãn hiệu tập thể (“Mỹ Hưng” cho sản phẩm tép rang dừa, “Phú Đức” dùng cho sản phẩm nem chay; “Thạnh Phước” dùng cho sản phẩm Tôm sinh thái; “Tam Hiệp” dùng cho sản phẩm nhãn; Mỹ Sơn Đông dùng cho sản phẩm gà nòi; Long Hòa dùng cho sản phẩm nhãn, Phú Nghĩa dùng cho sản phẩm rau tươi, “Mỹ An” dùng cho sản phẩm chổi; “Chợ Lách” dùng cho sản phẩm măng cụt, chôm chôm; sản phẩm nông nghiệp Thanh Tân; sản phẩm nông nghiệp Hòa Lộc; sản phẩm nông nghiệp Lộc Thuận; sản phẩm nông nghiệp Tân Thiềng; sản phẩm nông nghiệp Sơn Đông).
Hỗ trợ xây dựng 33 nhãn hiệu thông thường (Sa Sâm Việt; FSM; “DPM, hình”; “Cô Thinh, hình”; “Thảo San”; “Sáu Lài”; “Lộc Mai”; “S-Sẵn sàng”; “Phước Xoàn”; “Smart friend, hình”; “Cao Trí, hình”; “Hồng Yến”; “COOP, hình”,GECOSEXCHUNG, “Thúy Kiều, hình”; “PK, hình”; “Trại nấm Dũng Trang, hình”; “Minh Thành funny fruit, hình”; “CP, hình”; “Yes, CôCô YESCOCO NO PLASTIC, hình”; “Hải Sơn Bưởi RUBY, Công ty TNHH MTV TM-DV Cây giống, hình”, ....); 03 sáng chế/giải pháp hữu ích (Nhang trừ muỗi sinh học, Cơ cấu in trên quả dừa và quy trình in trên quả dừa sử dụng cơ cấu này, Máy xe chỉ xơ dừa kiểu se đơn hai trục); 01 kiểu dáng công nghiệp (Hộp đựng ống hút dừa).
Có thể nói về cơ bản, ngành KH&CN đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu và nhiệm vụ đặt ra trong Đề án như Giá trị sản phẩm công nghệ cao và ứng dụng công nghệ cao trên tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh dần được tăng lên hàng năm (2016: 22,8%; 2017: 24,2%; 2018: 27%; 2019: 28,6%) và 2020 đạt 30%. Tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị giai đoạn 2011 – 2015 đạt 14,3%/năm (Chỉ tiêu Nghị quyết 20-NQ/TW là từ 10-15%); giai đoạn 2016 – 2020 đạt 20%/năm. Giá trị sản phẩm và dịch vụ KH&CN trên thị trường tăng bình quân 20%/năm và đến năm 2019 chiếm tỷ trọng 6,2% GRDP của tỉnh, tăng 9,5 lần so với năm 2015 (0,65% GRDP của tỉnh) đã góp phần tích cực vào sự phát triển công nghiệp tỉnh nhà.