Canh tác nông nghiệp thích ứng xâm nhập mặn ở Bến Tre
Tình hình xâm nhập mặn ngày càng diễn biến gay gắt, bất thường, không theo quy luật, khó đoán định, trước đây mặn thường đạt đỉnh và duy trì trong tháng 3 sau đó giảm dần nhưng trong năm 2019 vừa qua mặn lại ở mức rất cao ngay từ tháng 12 và tiếp tục duy trì khoảng 5 tháng. Do hệ thống thủy lợi chưa hoàn chỉnh; do chặn dòng của các công trình thủy điện trên thượng nguồn sông MeKong cùng sự kết hợp với biến đổi khí hậu, nước biển dâng làm cho mặn ngày càng xâm nhập sâu dọc theo các cửa sông vào nội đồng.
Do đó, Bến Tre cần các giải pháp canh tác nông nghiệp thích ứng với xâm nhập mặn cả trước mắt và lâu dài.
1. Giải pháp trước mắt
Trữ ngọt
Trữ nước ngọt để phục vụ sản xuất là giải pháp tối ưu trước mắt cần được lựa chọn áp dụng trong bối cảnh hiện nay. Các biện pháp phi công trình như tiến hành vận động mọi tổ chức, cá nhân không được chủ quan, lơ là trong hoạt động trữ nước ngọt. Tổ chức vận hành các công trình thủy lợi thông suốt như đóng mở các cống, đập thủy lợi hợp lý và kịp thời nhằm vừa tích trữ được nguồn nước dồi dào vừa đảm bảo không phát sinh các nguy cơ gây ô nhiễm cục bộ và ách tắt lưu thông thủy.
Các biện pháp công trình với các hình thức trữ nước ngọt phổ biến như: đắp đập tạm thời tích trữ nước ở lưu vực đầu ngọn nước của các sông, kênh, rạch hoặc các con kênh cùng, cụt; dựa vào địa hình, địa vật sẵn có như mương vườn, ao, hồ, nơi trũng thấp… xây gờ, bờ bao khép kín, nạo vét, đào đất và gia cố thêm vật liệu chống thấm tạo nguồn tích trữ nước ngọt đủ dùng; sử dụng các dụng cụ chứa đựng nước ngọt bằng vật liệu mới: vật liệu composite, nhựa… đặt để ở những vị trí phù hợp đảm bảo an toàn và tăng độ bền chắc khi sử dụng các dụng cụ này.
Giếng đào ở Cồn Cỏ xã Thạnh Hải, Thạnh Phú. |
Giữ ẩm
Giữ ẩm là giải pháp chủ yếu thứ hai trong quá trình tổ chức sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu xâm nhập mặn với các biện pháp từ truyền thống đơn giản đến hiện đại phức tạp: giữ lớp thực bì tự nhiên, giữ cỏ, tủ gốc, sử dụng màng che tạo bóng râm, màng phủ nông nghiệp, lưới tủ gốc.
Dùng chất giữ ẩm là loại vật liệu hút, giữ nước được dùng trong nhiều lĩnh vực như y tế, nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, xử lý nước… Trước đây những chất hút nước thường có thành phần chủ yếu là xenlulo và sợi như than bùn, bã mía, xơ dừa, cao lanh... và chỉ có khả năng giữ nước khoảng 20 lần trọng lượng của chúng. Ngày nay có nhiều loại vật liệu có thể hút và giữ một khối lượng dung dịch lớn gấp 400-750 lần so với khối lượng của nó, có nghĩa là 01 kg vật liệu có thể hút và giữ đến 750 kg nước ngọt, sủ dụng hút và nhả nước được nhiều lần. Có 3 xu hướng chính: các vật liệu ổn định đất, giữ ẩm với các thành phần như hợp chất tự nhiên (cenlulose,..), polymer, polyacrylate, vinyl polymer…; ứng dụng chất giữ ẩm phục vụ canh tác, trồng trọt và kết hợp phân bón với chất giữ ẩm.
Các loại chất giữ ẩm được ứng dụng hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp hiện nay, các loại vật liệu có khả năng giữ ẩm cao, gồm: vật liệu PA tổng hợp từ nguyên liệu bã mía có khả năng hút nước cao gấp 490 lần, cấu trúc bền từ 120 – 140 ngày; vật liệu polyacrylat AA có thể hút nước cao gấp 750 lần; vật liệu Copolymer PVA-PA có thể hút nước cao gấp 506 lần; vật liệu tinh bột PA có thể hút nước cao gấp 501 lần đã được nghiên cứu, chế tạo và thương mại từ đề tài của Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
Chất AMS-1 là sản phẩm dạng gel giữ nước từ quá trình đồng trùng hợp ghép acide acrylic với tinh bột đã được biến tính; là một polyme siêu thấm, có khả năng hút 400 – 420g nước/01g chất khô và trương nở gấp 400 lần khối lượng ban đầu nên còn có tác dụng cải tạo đất thịt, đất sét, giúp cho việc thoát, lưu thông và giữ nước hợp lý; có khả năng giữ nước trong 2 năm và tự phân hủy sinh học sau 3 – 4 năm, không gây hại môi trường. AMS-1 do Viện Hóa học thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia nghiên cứu và chế biến được Bộ Khoa học Công nghệ công nhận là một tiến bộ kỹ thuật và được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn lựa chọn ứng dụng vào trồng trọt.
Vật liệu giữ nước được tổng hợp từ nguyên liệu bã mía và mùn cưa nghiền cơ học thành dạng bột, có khả năng hút nước cao, có thể giữ được 120 – 140 ngày mới phân hủy cấu trúc do Viện Công nghệ Hóa học nghiên cứu và chế tạo thành công.
Chất giữ ẩm “CH” tổng hợp bước đầu trên cơ sở các chất nền gồm acid acrylic, tinh bột, chất tạo liên kết ngang DEG-DAA và chất khơi mào tạo thành sản phẩm hút giữ nước với khối lượng từ 200 – 600 lần vật liệu nền để cung cấp nước từ từ cho cây trồng. Sản phẩm do Viện Khoa học Vật liệu ứng dụng, thành phố Hồ Chí Minh nghiên cứu nhưng sản phẩm nhanh phân hủy nên chỉ ứng dụng chống hạn cho cây trồng ngắn ngày.
Chế phẩm giữ ẩm GAM-SORB (chất chống hạn gam sorb) giảm được 30 đến 50 % số lần tưới hoặc lượng nước tưới và điều hòa độ ẩm trong đất; bổ sung dinh dưỡng cho cây, đặc biệt là Kali (~19%) vào thời kỳ trổ bông, tạo quả; có nguồn gốc từ tinh bột nên khi phân hủy sẽ tạo chất mùn.
Lựa chọn các đối tượng cây trồng, vật nuôi có mối quan hệ tương hỗ sinh học trồng xen, nuôi xen theo hình thức đa tầng phát huy lợi thế cộng sinh, không cạnh tranh, xung đột trong việc sủ dụng nước. Xây dựng chuồng, trại thông thoáng và sử dụng hệ thống giám sát nhiệt độ, độ mặn tự động nhằm cảnh báo kịp thời.
Tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ hoai mục, hữu cơ cao cấp và các chế phẩm sinh học làm tăng khả năng chống chịu hạn, chịu mặn, chịu úng ngập, chịu đựng được thời tiết cực đoan hay các chế phẩm sinh học ức chế sinh trưởng tạm thời cho cây trồng; sử dụng thức ăn công thức tạo nên sức đề kháng tốt hơn cho đối tượng vật nuôi.
Sử dụng màng phủ nông nghiệp trên ruộng dưa hấu. |
Sử dụng nước hợp lý
Thực tế đã chứng minh, nghiên cứu về giống có thể chỉ tăng 5-10%, nhưng một hệ thống tưới hợp lý có thể làm cây trồng tăng năng suất 30-50%. Do đó, áp dụng các kỹ thuật tưới nước hợp lý tức là tưới nước dựa vào nhu cầu sử dụng của cây trồng và số lượng nước cần để bù đắp vào lượng nước đã bị thiếu hụt do hiện tượng bốc hơi, đảm bảo giữ được cân bằng độ ẩm tối ưu trong môi trường đất; Kỹ thuật này có thể tiết kiệm từ 50 đến 80% so với kỹ thuật tưới thông thường và được phân chia thành 3 loại: tưới nhỏ giọt, tưới phun mưa cục bộ và tưới ngầm cục bộ.
Tưới nhỏ giọt là kỹ thuật tưới cung cấp nước vào đất dưới dạng các giọt nước nhỏ ra từ thiết bị tạo giọt đặt trên mặt đất gần gốc cây.
Tưới phun mưa cục bộ là kỹ thuật tưới cung cấp nước cho cây trồng dưới dạng các hạt mưa hoặc hạt sương rơi trên một diện tích nhỏ xung quanh gốc cây trồng.
Tưới ngầm cục bộ là kỹ thuật tưới đưa nước vào đất dưới dạng các giọt nước chảy ra thường xuyên từ thiết bị tưới đặt dưới mặt đất ở vùng rễ cây hoạt động.
Các tổ chức, nông hộ có nhu cầu áp dụng mô hình tưới nước hợp lý liên hệ với Trung tâm Khoa học và Công nghệ tỉnh Bến Tre thuộc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh để được phục vụ.
Liên kết vận chuyển nước ngọt
Liên kết các tổ chức, nông hộ lại để tổ chức vận chuyển nước ngọt từ nơi khác đến là giải pháp được tiến hành khi các nguồn trữ nước ngọt có dấu hiệu sắp cạn kiệt nhưng diễn biến hạn mặn vẫn đang tiếp diễn. Đặc điểm của phương pháp này, thời gian hạn mặn càng kéo dài gay gắt, dẫn đến địa điểm lấy nước ngọt càng thêm xa, kéo theo chí phí vận chuyển càng gia tăng sẽ làm cho các tổ chức, nông hộ có nguồn lực tài chính chưa đủ lớn mất khả năng cân đối cho hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Ứng dụng công nghệ lọc nước nhiễm mặn
Về nguyên tắc tổ chức sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh trong bối cảnh hiện nay sau khi đã áp dụng đồng thời 4 giải pháp về trữ ngọt, giữ ẩm, sử dụng nước hợp lý và liên kết vận chuyển nước ngọt từ nơi khác đến đã được trình bày ở trên nhưng tình trạng xâm nhập mặn chưa có dấu hiệu suy giảm và vẫn còn có nguy cơ cao tiếp tục uy hiếp đến hoạt động sản xuất nông nghiệp. Lúc này, các tổ chức và nông hộ mới tiến hành giải pháp tiếp theo là ứng dụng công nghệ lọc nước nhiễm mặn thành nước ngọt để bổ cấp vào nguồn trữ nước ngọt kịp thời.
Về cơ bản có 3 giải pháp lọc nước nhiễm mặn thành nước ngọt bằng cách chưng cất, màng lọc và trao đổi ion. Giải pháp phổ biến và đã có các sản phẩm thương mại lưu thông rộng rãi trên thị hiện nay là các sản phẩm sử dụng công nghệ màng lọc RO. Tùy thuộc vào quy mô sản xuất, năng lực đầu tư, nhu cầu khai thác sử dụng và điều kiện vận hành của các tổ chức và nông hộ để tìm hiểu, lựa chọn áp dụng công nghệ này một cách hiệu quả nhất.
Khai thác nước ngầm tại chỗ
Việc sử dụng biện pháp khai thác nước ngầm ở tầng sâu tại chỗ bằng các hình thức giếng khoan và các hình thức khác các tổ chức, nông hộ nên khảo sát, lựa chọn trúng vị trí có mạch nước ngầm ngọt để bớt tốn kém chi phí đầu tư và phải tuân thủ nghiêm quy định về thăm dò, khai thác và sử dụng nguồn Tài nguyên nước ngầm. Bản đồ hiện trạng phân bố và quy hoạch khai thác sử dụng nguồn tài nguyên nước ngầm tại tỉnh Bến Tre, các tổ chức và nông hộ liên hệ với Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre để được phục vụ.
Khai thác và sử dụng nước giồng cát qua các giếng hộc, giếng đào chỉ là giải pháp cứu cánh tạm thời do nguồn nước này có trữ lượng nhỏ, lưu lượng thấp và thường bị cạn kiệt nhanh chóng vào đầu mùa khô.
Khuyến cáo các tổ chức và nông hộ hạn chế tối đa việc khai thác và sử dụng nước ngầm.
2. Giải pháp lâu dài
Nhiệm vụ trong thời gian tới ưu tiên thực hiện: Nghiên cứu việc tổ chức lại sản xuất một cách hợp lý, khoa học phù hợp cho từng vùng sinh thái nước ngọt, nước lợ và mặn theo ranh giới mới, có biên độ mở và nới lỏng diện tích vùng mặn và lợ hơn, khu trú diện tích vùng ngọt lại.
Nghiên cứu chuyển giao trồng các giống cây trồng, vật nuôi có khả năng thích nghi, khả năng chống chịu hạn, mặn, ngập úng và thời tiết cực đoan kéo dài nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất nông nghiệp bền vững trên địa bàn tỉnh, làm cho các tổ chức và nông hộ ngày càng trở nên hưng thịnh hơn ngay tại thửa ruộng, mảnh vườn, cái vuông của mình. Xác định thời điểm chuyển đổi các mô hình canh tác (trồng lúa, nuôi tôm, trồng màu) phù hợp với điều kiện xâm nhập mặn.
Nghiên cứu, ứng dụng các phương thức kéo giảm, rút ngắn thời gian sinh trưởng đối với cây trồng, vật nuôi ngắn ngày; chủ động sắp xếp thời vụ, kịp thời điều chỉnh và bố trí các thời kỳ nhạy cảm đối với từng loại đối tượng nuôi trồng để né tránh cho bằng được thời điểm hạn mặn xâm nhập, ngập úng và thời tiết cực đoan.
Tiếp tục đầu tư nghiên cứu và hoàn thiện hơn nữa công nghệ xử lý nước bị nhiễm mặn nhằm tăng hiệu suất lọc, nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm để các tổ chức và nông hộ có thể tiếp cận đại trà; Tăng cường hoạt động hỗ trợ, chuyển giao, ứng dụng các giải pháp và công nghệ sử dụng nước hợp lý phục vụ sản xuất nông nghiệp cho các tổ chức và nông hộ trên địa bàn tỉnh làm hiệu ứng lan tỏa.
Nghiên cứu, chuyển giao các chế phẩm sinh học trong việc xử lý nhiễm mặn trong môi đất có thời gian xử lý ngắn hơn, hiệu quả hơn và giá thành rẻ hơn.
Nghiên cứu, hoàn thiện và công bố phát đồ điều trị các loại cây trồng và đối tượng vật nuôi, đặc biệt đối với các giống loài đặc hữu, danh tiếng, chủ lực và các Chỉ dẫn địa lý của địa phương.
Để có nguồn nước ngầm dồi dào, vào mùa mưa, các tổ chức và nông hộ sau khi đã ứng nước và trữ nước mưa đầy ắp trong các vật dụng chứa nước hoặc có đường thu gom nước mưa riêng, chuyển lượng nước được thu hứng còn lại vào các giếng khơi, giếng cạn, giếng hộc, giếng đào, ao, hồ khép kín, vùng trũng thấp… nhằm tạo nguồn bổ cấp trữ lượng nước ngầm ngọt.
Triển khai các chính sách của nhà nước hỗ trợ cho các tổ chức và nông hộ xây dựng các mô hình chuyển đổi như: lúa - tôm, trồng cỏ, cây ăn trái và trồng màu cho các vùng bị nhiễm mặn; chuyển đổi các đối tượng nuôi đặc hữu, có giá trị tại vùng bị nhiễm mặn.
Sở Khoa học và Công nghệ sẽ trình Ủy ban nhân dân tỉnh cơ chế hỗ trợ thiết bị lọc nước mặn thành nước ngọt, hỗ trợ kiểm nghiệm chất lượng nước phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp, các mô hình sử dụng nước hợp lý,… khi cấp có thẩm quyền ban bố tình trạng thiên tai.
Phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao
Trước bối cảnh biến đổi khí hậu xâm nhập mặn, diện tích đất sản xuất ngày bị thu hẹp dần do đô thị hóa, cùng với thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và quá trình hội nhập quốc tế ngày càng trở nên sâu rộng. Do đó việc lựa chọn, chuyển giao, xây dựng, ứng dụng và phát triển nông nghiệp công nghệ cao là xu thế tất yếu và là giải pháp được lựa chọn tối ưu nhất giúp hoạt động sản xuất nông nghiệp tỉnh nhà không chỉ thích ứng với biến đổi khí hậu xâm nhập mặn và an toàn dịch bệnh mà còn có một nền nông nghiệp phát triển thịnh vượng và bền vững trong tương lai. Nông nghiệp công nghệ cao của Bến Tre còn nhiều dư địa để phát triển vượt bật, bắt kịp với các tỉnh có trình độ sản xuất nông nghiệp khá trong vùng và ngay cả trong nước.
Các tiến bộ về khoa học công nghệ đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Mức độ tổn thất của nông sản đã giảm đáng kể và mức độ cơ giới hóa ở khâu làm đất đối với các loại cây hàng năm đạt khoảng 94%. Hoạt động khoa học công nghệ được ứng dụng trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp từ nghiên cứu, chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi; kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc, canh tác; thức ăn chăn nuôi; phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y; kỹ thuật chế biến, bảo quản sau thu hoạch… đã tạo ra giá trị mới cho nông sản, giúp sản phẩm tươi, an toàn, nâng cao năng suất, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng...
Năm 2021, thời điểm khởi đầu của thập niên mới, thời kỳ lấy đổi mới sáng tạo làm động lực phát triển kinh tế-xã hội, Sở Khoa học và Công nghệ sẽ tham mưu các cấp có thẩm quyền dựa vào ưu việt từng công nghệ lựa chọn ưu tiên ứng dụng và phát các công nghệ số chủ chốt như như trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám mây, mô phỏng, robot tự hành và các công nghệ sinh học chủ chốt là tế bào gốc, xúc tác sinh học, tin sinh học, chip sinh học và cảm biến sinh học, nông nghiệp chính xác, công nghệ nhà kính, công nghệ tưới nhỏ giọt,… xây dựng thành công nông nghiệp công nghệ cao vừa tiết kiệm chi phí sản xuất, tăng năng suất, hạ giá thành và nâng cao chất lượng nông sản, bảo vệ môi trường, giúp tổ chức và nông hộ chủ động trong sản xuất, khắc phục được tính mùa vụ, né tránh được tác hại do biến đổi khí hậu xâm nhập mặn, hạn hán, thiếu hụt nguồn nước, ngập úng và giảm sự lệ thuộc vào thời tiết cực đoan, kiểm soát được dịch bệnh; đồng thời đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng nông sản và an toàn thực phẩm.
Hiện đại hóa, thương mại hóa nông nghiệp, chuyển mạnh sang phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, sản xuất lớn, dựa vào khoa học - công nghệ, có năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao. Chuyển nền nông nghiệp từ sản xuất lương thực là chủ yếu sang phát triển nền nông nghiệp đa dạng phù hợp với lợi thế của từng vùng.
Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi có quy mô sản xuất tương đối đủ lớn và đầu tư tương xứng về mặt hạ tầng, công nghệ sản xuất, hạn điền chưa đủ theo quy định của pháp luật nên chưa thu hút được nguồn đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ tạo vùng sản xuất tập trung; quá trình thâm nhập thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao rất kỳ công, lâu dài nên thường bị đứt gãy giữa chừng; hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, nhân lực phục vụ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao còn hạn chế… Do đó, rất cần các cấp, các ngành và địa phương quan tâm và tiếp tục triển khai quyết liệt và khơi thông các cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao bắt đầu ngay trong những ngày đầu của năm 2021.
Thực hiện các giải pháp nêu trên sẽ sớm đưa Bến Tre thành tỉnh có hoạt động canh tác nông nghiệp thích ứng với xâm nhập mặn.