Xây dựng đội ngũ trí thức ngành khoa học và công nghệ

Thực hiện chỉ đạo của tỉnh ủy Bến Tre, Sở Khoa học và công nghệ (KH&CN) đã tổ chức báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (gọi tắt là Nghị quyết 27), 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 27 nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, toàn thể cán bộ công chức viên chức và người lao động, nhất là các tổ chức KH&CN về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa có bước tiến mới và đã được nâng tầm nhiệm vụ; mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ trí thức được đưa vào chương trình, kế hoạch công tác hàng năm của các cấp ủy để lãnh đạo thực hiện; kết quả đã thu hút, sử dụng, trọng dụng được đội ngũ trí thức nhất là trí thức trẻ, có trình độ cao, có tâm huyết cống hiến hết mình vì sự phát triển KH&CN và sự phồn vinh của tỉnh nhà.

 

Đổi mới hệ thống, cơ chế hoạt động của tổ chức KH&CN


Các cấp ủy, chính quyền tập trung lãnh đạo đổi mới cơ bản hệ thống tổ chức khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo các cấp theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; hệ thống tổ KH&CN tại tỉnh đang đà phát triển với 15 tổ chức khoa học và công nghệ, trong đó có 06 tổ chức KH&CN công lập và 09 tổ chức KH&CN ngoài công lập, đảm bảo hội đủ năng lực cơ bản để chủ trì, thực hiện các nhiệm vụ KH&CN đặt ra theo yêu cầu của các cá nhân, tổ chức và xã hội. Các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ công lập đang xây dựng đề án thực hiện theo lộ trình chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp sang cơ chế tự chủ, tự trang trải theo Nghị định 60/2021/NĐ-CP, ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sư nghiệp công lập và Thông tư số 02/2021/TT-BKHCN ngày 10/3/2021 của Bộ Khoa học và Công nghệ Quy định tiêu chí phân loại, điều kiện thành lập, sáp nhập, hợp nhất, giải thể các tổ chức khoa học và công nghệ công lập.

 

Củng cố, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ hoạt động KH&CN các cấp phù hợp từng giai đoạn: Được sự quan tâm lãnh, chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở công tác sắp xếp tổ chức bộ máy được triển khai thực hiện nghiêm túc theo yêu cầu Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Kết quả đến nay, Sở đã bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn Phòng Quản lý Khoa học từ Phòng Quản lý Khoa học và Công nghệ cơ sở (Phòng QLKH&CNCS) do Phòng QLKH&CNCS không đủ nhân sự để làm việc (chỉ có 01 người); trình Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh thông qua Đề án tổ chức lại Sở KH&CN; trình Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở KH&CN theo Thông tư số 01/2021/TT-BKHCN ngày 01/3/2021 của Bộ KH&CN hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn về khoa học và công nghệ thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Công tác tinh giản biên chế được quan tâm thực hiện đúng theo Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị, đảm bảo thực hiện đúng lộ trình tinh giản hàng năm và giai đoạn 2015-2021, đến năm 2021 Sở đã giảm 07 biên chế công chức, viên chức so với biên chế giao năm 2015 là 70 biên chế công chức, viên chức (tỷ lệ 10%).


Ngành KH&CN đã tích cực, chủ động phối hợp với các ngành, các cấp, các tổ chức KH&CN Trung ương triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN và đổi mới sáng tạo hàng năm; chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng KH&CN các cấp không ngừng được nâng lên, chủ động tham mưu cấp ủy, chính quyền trong việc định hướng phát triển, hướng dẫn, chuyển giao và ứng dụng tiến bộ KH&CN và đổi mới sáng tạo; đồng thời, tổ chức xét duyệt, nghiệm thu các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã được triển khai.

 

Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực KH&CN


Công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức, nhất là đội ngũ cán bộ KH&CN được quan tâm thực hiện, chất lượng nguồn nhân lực KH&CN có chuyển biến tích cực. Đến năm 2020, Bến Tre có 467/522 người lao động đạt trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm 89,46%; số lao động có trình độ trung cấp 55/522 người (công nhân kỹ thuật) chiếm 10,54% so với tổng số lao động trong lĩnh vực KH&CN. Tỉ lệ về cơ cấu giữa lực lượng có trình độ tiến sĩ - từ cao đẳng và đại học trở lên - trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật trong lĩnh vực KH&CN là 16 -  522 - 55 tương ứng: 1 - 33 – 3.

 

Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức và người lao động ngành KH&CN có tư tưởng tiến công, bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng; tâm huyết với nghề, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân, có khả năng độc lập trong nghiên cứu khoa học, học tập; có trình độ chuyên môn cao, phù hợp với từng vị trí công tác, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ của ngành trong giai đoạn hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0, đảm bảo đến năm 2030, có trên 35% công chức, viên chức có trình độ Thạc sĩ trở lên. Đối với đội ngũ lãnh đạo, quản lý cấp phòng trở lên đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế đạt từ 30-35%; ít nhất 1/3 công chức, viên chức của cơ quan sử dụng ngoại ngữ để giao tiếp thành thạo. Quan tâm xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý có bản lĩnh chính trị, có uy tín, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà theo hướng hiện đại giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.

 

Hiện Sở KH&CN hiện có 62 cán bộ, công chức, viên chức và người lao động, trong đó: có 20 viên chức, gồm: 04 thạc sĩ và 16 đại học; 31 công chức, gồm 02 tiến sĩ, 10 thạc sĩ và 19 đại học; 11 hợp đồng lao động.

 

Qua 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, nhận thức của toàn thể cán bộ công chức viên chức và người lao động trong ngành và hệ thống tổ chức KH&CN về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức có bước chuyển mới và được nâng tầm rõ nét. Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền ngày càng được cụ thể hơn; đội ngũ trí thức ngày càng được đãi ngộ và trọng dụng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ được quan tâm thực hiện, chất lượng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ có chuyển biến tích cực.

 

Tin tức khác cùng chuyên mục
• Nghiệm thu đề tài “Tạo lập, quản lý, và phát triển chỉ dẫn địa lý “Thạnh Phú” cho sản phẩm gạo của huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre”
• Hội thảo “Góp ý Quy trình kỹ thuật ương thuần dưỡng và nuôi thương phẩm cá bông lau trong ao đất tại Bến Tre”
• Nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu thực trạng sụt lún, ngập úng và đề xuất giải pháp thích ứng tại xã đảo Hưng Phong, huyện Giồng Trôm”
• Quy định quản lý truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa
• Nghiệm thu đề tài “Khảo sát sự lưu hành của virus và đánh giá đáp ứng miễn dịch sau khi tiêm phòng vaccine viêm da nổi cục trên bò tại Bến Tre”
• Hội thảo “Một số giải pháp xây dựng sản phẩm OCOP trên địa bàn tỉnh Bến Tre”
• Hội thảo đề tài “Nghiên cứu quy trình công nghệ và hệ thống thiết bị sơ chế, xử lý và bảo quản quả bưởi tươi phục vụ nội tiêu và xuất khẩu”
• Hội thảo đề tài “Nghiên cứu đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải của kênh, rạch, mương trong chăn nuôi heo tại huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre”
• Công bố quy hoạch mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ công lập thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050
• Khác biệt chưa biết về chỉ dẫn địa lý “Bến Tre” cho sản phẩm xoài Tứ Quý
• Phát hành hóa đơn điện tử ngay sau từng lần bán hàng xăng dầu
• Bến Tre: Tập huấn về cơ chế chi trả dựa vào kết quả - RBF và hướng dẫn nghiệm thu công trình khí sinh học trong chăn nuôi cho cán bộ kiểm tra chất lượng và thợ xây, thợ lắp đặt tại địa phương
• Hội thảo “Giải pháp khai thác hiệu quả các bãi bồi, cồn nổi ven sông trên địa bàn tỉnh Bến Tre”
• Hội thảo “Nghiên cứu thực trạng sụt lún, ngập úng và đề xuất giải pháp thích ứng tại xã đảo Hưng Phong, huyện Giồng Trôm”
• Sản phẩm gạo “Thạnh Phú” được bảo hộ chỉ dẫn địa lý