Hội đồng KHCN nghiệm thu đề tài so sánh con lai F1 giữa các giống bò Brahman, Red Angus, LaiSin lai bò cái nền (Laisin) và xây dựng mô hình chăn nuôi bò thịt chất lượng cao tại huyện Ba Tri

Hội đồng KH&CN Bến Tre vừa tổ chức nghiệm thu đề tài khoa học: “So sánh con lai F1 giữa các giống bò Brahman, Red Angus, lai Sind phối với bò cái nền địa phương (laisind) và xây dựng mô hình chăn nuôi bò thịt chất lượng cao tại huyện Ba Tri”. Đề tài do Kỹ sư chăn nuôi Nguyễn Văn Chấn và Bác sỹ thú y Nguyễn Quốc Trung, phó Giám đốc Trung tâm Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và nhóm nghiên cứu thực hiện.

Hiện nay, Bến Tre có tổng đàn bò trên 155 ngàn con. Chất lượng đàn bò ngày càng được chú trọng. Công tác thụ tinh nhân tạo bò đã được bà con nông dân thực hiện tích cực hơn. Từ năm 2008 đến nay, người chăn nuôi bò đã có những thay đổi đáng kể về nhận thức. Trước đây, người chăn nuôi chú trọng đến những đặc điểm bên ngoài như màu sắc, xoáy tích khi chọn con giống, nhưng thời gian gần đây, phần lớn người chăn nuôi đã quan tâm đến chất lượng con giống như: trọng lượng sơ sinh, tầm vóc lớn, tăng trọng nhanh.

image
Hội đồng KH&CN nghiệm thu đề tài bò lai F1


Tuy phong trào thụ tinh nhân tạo phát triển, nhưng nhìn chung chưa có các điều tra, khảo sát, đánh giá, so sánh các con bê lai giữa các công thức phối giống từ các giống bò thịt. Từ đó, chưa có một khuyến cáo chính thức công thức lai tạo đàn bò F1 chuyên thịt cũng như chưa có mô hình chuyên về vỗ béo bê lai trong các nông hộ. Để xác định tổ hợp lai từ các giống bò thịt, Trung tâm Giống nông nghiệp, nay là Trung tâm Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã thực hiện đề tài so sánh con lai F1 giữa các giống bò thịt phối bằng thụ tinh nhân tạo với đàn bò cái nền tại huyện Ba Tri, nơi có tổng đàn bò trên 73 ngàn con. Ba Tri cũng là địa phương có đàn bò cái nền được Sind hóa 100%. Đề tài được thực hiện từ tháng 3 năm 2011 đến tháng 4 năm 2014. Nhóm nghiên cứu đã thực hiện bốn công thức lai. Đó là sử dụng tinh đông lạnh bò Brahman lai với bò cái nền lai Sind. Công thức 2, sử dụng tinh đông lạnh bò Red Angus lai với bò cái nền lai Sind. Công thức 3, sử dụng tinh đông lạnh bò đực Red Angus phân biệt giới tính với bò cái nền lai Sind. Và công thức 4, bò đực giống lai Sind phối trực tiếp với bò cái nền địa phương. Tổng số bò được phối giống là 169 con. Bò đậu thai 95 con, đạt tỷ lệ 57%.

image
Bò lai Red Angus phân biệt giới tính


Kết quả nghiên cứu cho thấy, công thức lai giữa bò Brahman và bò lai Sind đạt tỷ lệ đậu thai cao nhất, với 71,43%. Trọng lượng bò sơ sinh đến 18 tháng tuổi thuộc nhóm lai chuyên thịt Red Angus và Red Angus phân biệt giới tính luôn lớn hơn nhóm bò lai Brahman và lai Sind. Về năng suất thịt cuối kỳ nuôi đực vỗ béo, đối với bò lai Red Angus đạt cao nhất, kế đến là bò lai Brahman và lai Sind. Tỷ lệ thịt xẻ, thịt tinh và diện tích cơ thăn của nhóm bò lai Red Angus cao hơn 2 nhóm còn lại. Ngoài ra, chất lượng Protein, khoáng và mỡ trong thịt bò nhóm lai Red Angus cao hơn 2 nhóm còn lại. Nhìn chung, kết quả nghiên cứu đã cho thấy, con lai F1 giữa bò Red Angus với bò lai Sind đạt hiệu quả cao nhất. Kế đến là con lai giữa bò Brahman với bò lai Sind.

image
Bò lai Brahman


Qua kiểm tra thực tế, tại hộ ông Nguyễn Trọng Liêm và ông Lê Văn Hải, xã Phú Lễ, huyện Ba Tri, những hộ dân phối hợp thực hiện công thức lai sử dụng tinh đông lạnh bò đực Red Angus phân biệt giới tính lai bò cái nền lai Sind. Sau khi phối giống, bê sinh ra toàn đực. Sau 18 tháng tuổi, trọng lượng bò lai đạt khoảng 450 kg. Ông Nguyễn Trọng Liêm cho biết, bò lai Red Angus phát triển rất tốt, và tăng trọng nhanh hơn so với bò địa phương.

Đối với hộ bà Võ Thị Hồng Bế, xã Phước Tuy, huyện Ba Tri thực hiện công thức lai sử dụng tinh đông lạnh bò Red Angus lai bò cái nền lai Sind. Bò mẹ đậu thai và sinh ra bò Red Angus cái. Hiện nay, bò lai F1 Red Angus đã được tiếp tục phối giống để cho ra bên lai thế hệ F2. Chị Bế cho biết, bò lai Red Angus dễ nuôi, tăng trọng nhanh, được người chăn nuôi và thị trường bò giống cũng như bò thịt đều ưa chuộng.

Hộ ông Nguyễn Văn Hòa, ở xã Tân Xuân, huyện Ba Tri thực hiện công thức lai, sử dụng tinh đông lạnh bò Brahman lai bò cái nền lai Sind. Bê con sinh ra, sau 26 tháng có trọng lượng khoảng 400 kg. Bò phát triển tốt và đã đẻ một bê con.

Theo bác sỹ Thú y Nguyễn Quốc Trung và nhóm nghiên cứu tính toán về hiệu quả kinh tế. Ở giai đoạn bò lai F1 từ sơ sinh đến 18 tháng tuổi, qua theo dõi, ghi chép thực tế về chi phí thức ăn, phối giống và giá bán bê lai F1 của từng tổ hợp lai. Kết quả, bò lai F1 giống Brahman thu về 17.340.000 đồng; bò lai Red Angus thu được 20.649.000 đồng; bò lai Red Angus phân biệt giới tính thu được 20.335.000 đồng và bò lai Sind bán được 12.590.000 đồng.

Ở giai đoạn bò nuôi vỗ béo từ 19 đến 22 tháng tuổi, sau 4 tháng vỗ béo, đối với bò lai Brahman, lợi nhuận đạt 13.495.000 đồng; bò lai Red Angus đạt lợi nhuận 14.049.000 đồng và bò lai Sind đạt 11.547.000 đồng. Bình quân lợi nhuận 1 tháng vỗ béo, đối với bò lai Brahman là 3.373.000 đồng; bò lai Red Angus đạt 3.512.000 đồng và bò lai Sind đạt 2.886.000 đồng. Ngoài ra, đề tài còn đạt hiệu quả xã hội, giúp cho các nông hộ chăn nuôi bò chọn ra một công thức lai phù hợp với khí hậu, chăm sóc, nuôi dưỡng và thức ăn có sẵn tại địa phương. Qua đề tài này, nông dân học tập được kỹ thuật chăn nuôi bò lai F1 và nhân rộng ra các huyện lân cận. Đề tài là cơ sở cho việc phát triển ngành chăn nuôi bò thịt, góp phần đáp ứng nhu cầu thịt bò chất lượng cao cho thị trường và đem lại lợi nhuận bền vững cho người chăn nuôi bò trong tỉnh.
Đề tài đã được Hội đồng KH&CN đánh giá cao về hướng nghiên cứu, kết quả và hiệu quả của đề tài. Đề tài đã góp phần phát triển đàn bò thịt chất lượng cao tại huyện Ba Tri và có khả năng nhân rộng ra toàn tỉnh. Đề tài được nghiệm thu loại khá.

Cao Đẳng
Đài Truyền hình Bến Tre

Tin tức khác cùng chuyên mục
• Bến Tre phát triển giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng
• Nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải của kênh, rạch, mương trong chăn nuôi heo tại huyện Mỏ Cày Nam”
• Kiểm định huyết áp kế tại tỉnh Bến Tre
• Thành lập hội đồng quốc gia về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
• Nghiệm thu đề tài “Điều tra thực trạng, đánh giá chế độ dòng chảy, xu thế diễn biến các bãi bồi, cồn nổi ven sông và đề xuất giải pháp khai thác tổng hợp”
• Lãnh đạo tỉnh tiếp và làm việc với đoàn công tác UBND TP. Cần Thơ về việc biên soạn Địa phương chí tỉnh Bến Tre
• Tiếp và làm việc đoàn công tác Bộ phận đại diện khoa học và công nghệ (KH&CN) tại Đài Loan (Trung Quốc), Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ - Bộ KH&CN
• Nghiệm thu đề tài “Tạo lập, quản lý, và phát triển chỉ dẫn địa lý “Thạnh Phú” cho sản phẩm gạo của huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre”
• Hội thảo “Góp ý Quy trình kỹ thuật ương thuần dưỡng và nuôi thương phẩm cá bông lau trong ao đất tại Bến Tre”
• Nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu thực trạng sụt lún, ngập úng và đề xuất giải pháp thích ứng tại xã đảo Hưng Phong, huyện Giồng Trôm”
• Quy định quản lý truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa
• Nghiệm thu đề tài “Khảo sát sự lưu hành của virus và đánh giá đáp ứng miễn dịch sau khi tiêm phòng vaccine viêm da nổi cục trên bò tại Bến Tre”
• Hội thảo “Một số giải pháp xây dựng sản phẩm OCOP trên địa bàn tỉnh Bến Tre”
• Hội thảo đề tài “Nghiên cứu quy trình công nghệ và hệ thống thiết bị sơ chế, xử lý và bảo quản quả bưởi tươi phục vụ nội tiêu và xuất khẩu”
• Hội thảo đề tài “Nghiên cứu đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải của kênh, rạch, mương trong chăn nuôi heo tại huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre”