Hội thảo “Góp ý Quy trình kỹ thuật ương thuần dưỡng và nuôi thương phẩm cá bông lau trong ao đất tại Bến Tre”

Ngày 19/5/2022, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 1044/QĐ-UBND cho phép triển khai thực hiện đề tài: “Nghiên cứu cải tiến quy trình ương và nuôi cá Bông lau thương phẩm trong ao đất”, đề tài do Phân viện Nghiên cứu Hải sản phía Nam chủ trì thực hiện và ông Nguyễn Phước Triệu làm Chủ nhiệm đề tài.

 

Mục tiêu của đề tài nhằm xây dựng và cải tiến quy trình mô hình ương thuần dưỡng và nuôi thương phẩm cá Bông lau trong ao đất, để đa dạng hóa đối tượng giúp người nuôi tăng thêm thu nhập trên diện tích đất.

 

Bà Trương Trịnh Trường Vinh - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ

phát biểu tại hội thảo.

 

Để sản phẩm đề tài mang tính khoa học cao, sát thực tiễn, sáng ngày 05/4/2024, Sở Khoa học và Công nghệ kết hợp với Phân viện Nghiên cứu Hải sản phía Nam là đơn vị chủ trì thực hiện buổi hội thảo khoa học với chủ đề: “Góp ý Quy trình kỹ thuật ương thuần dưỡng và nuôi thương phẩm cá Bông lau trong ao đất tại Bến Tre”. Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ, bà Trương Trịnh Trường Vinh chủ trì hội thảo. Chương trình có sự tham dự của các nhà khoa học, đại diện các sở, ngành, huyện trên địa bàn tỉnh.

 

Cá bông lau là loài cá kinh tế quan trọng ở khu vực sông Mê Kông nói chung và Đồng bằng Sông Cửu Long nói riêng, có kích cỡ lớn có thể đạt 15 kg/con, chất lượng thịt thơm ngon và giá trị dinh dưỡng cao, cá bông lau khai thác tự nhiên rất được ưa chuộng, giá bán dao động từ 180.000đ/kg-350.000 đ/kg tùy theo kích cỡ. Nhưng hiện nay nguồn lợi cá bông lau khai thác ngoài tự nhiên cạn kiệt nên nguồn cung ngày càng khan hiếm. Đây là đối tượng được đánh giá là có tiềm năng về nuôi trồng thủy sản nhưng nghề nuôi cá bông lau chưa thực sự phát triển do nguồn giống chưa được sản xuất đại trà và chủ yếu khai thác từ tự nhiên.

 

Tỉnh Bến Tre với lợi thế là nằm trên vùng hạ lưu sông Tiền (cửa Cổ Chiên, cửa Đại, cửa Hàm Luông) có nguồn lợi cá bông lau tương đối phong phú, hoạt động khai thác cá bông lau giống diễn ra từ tháng 8 đến tháng 10 hàng năm đã cung cấp con giống cho nghề nuôi ở địa phương. Mặc dù đã được nuôi phổ biến nhưng hiệu quả sản xuất đạt được chưa cao và chưa ổn định, tỷ lệ sống giai đoạn ương giống dao động từ 10-60%, do chưa có mô hình và quy trình nuôi đối với cá bông lau nên người nuôi chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nuôi các đối tượng khác áp dụng vào nuôi cá bông lau.

 

Vì vậy, việc nghiên cứu cải tiến quy trình ương và nuôi thương phẩm cá bông lau trong ao đất tại tỉnh Bến Tre là rất cần thiết, nhằm đề xuất giải pháp nâng cao tỷ lệ sống trong khâu ương và nuôi thương phẩm từ nguồn giống tự nhiên, tạo cở sở nhân rộng mô hình nuôi, góp phần đa dạng hóa các đối tượng nuôi giúp người nuôi tăng thêm thu nhập trên diện tích đất, đặc biệt là tận dụng được các ao nuôi tôm sản xuất kém hiệu quả.

 

Cá bông lau.

 

Tại hội thảo, các đại biểu đã được đại diện đơn vị chủ trì báo cáo kết quả thực hiện, đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện đề tài, những nội dung của đề tài về các vấn đề như: ảnh hưởng của mật độ ương đến sự phát triển của cá bông lau giai đoạn ương thuần dưỡng; ảnh hưởng của mật độ nuôi đến sự phát triển của cá bông lau giai đoạn nuôi thương phẩm; báo cáo kết quả xây dựng Quy trình kỹ thuật ương thuần dưỡng và nuôi thương phẩm cá bông lau trong ao đất tại Bến Tre.

 

Qua nghiên cứu, nhóm thực hiện đã xây dựng được quy trình ương thuần dưỡng và nuôi thương phẩm cá bông lau trong ao đất gồm hai giai đoạn (giai đoạn ương thuần dưỡng, giai đoạn nuôi thương phẩm) và xây dựng sản phẩm OCOP 3 sao cho sản phẩm cá bông lau tươi sống (nguyên con) và sản phẩm khô cá bông lau một nắng.

 

Quang cảnh buổi hội thảo.

 

Tại hội thảo hầu hết các đại biểu đều đánh giá cao chất lượng nội dung nhóm nhiên cứu đã thực hiện, đã có nhiều ý kiến trao đổi, góp ý chỉnh sửa để sản phẩm của đề tài hoàn thiện tốt hơn. Kết quả bước đầu của đề tài sẽ là cơ sở khoa học những nghiên cứu tương tự trên cá bông lau, giúp sử dụng nguồn giống tự nhiên hiệu quả hơn, góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi trên địa phương. Tạo tiền đề cho nghiên cứu và ứng dụng quy trình sản xuất giống nhân tạo để bảo tồn nguồn lợi tự nhiên và chủ động con giống cho nghề nuôi. Bổ sung thêm đối tượng nuôi mới có giá trị kinh tế cao vào cơ cấu các đối tượng nuôi trồng thủy sản, nâng cao giá trị sản xuất thủy sản, tăng thu nhập và góp phần phát triển kinh tế của đơn vị và của hộ nuôi.

Tin tức khác cùng chuyên mục
• Nghiệm thu đề tài “Tạo lập, quản lý, và phát triển chỉ dẫn địa lý “Thạnh Phú” cho sản phẩm gạo của huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre”
• Nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu thực trạng sụt lún, ngập úng và đề xuất giải pháp thích ứng tại xã đảo Hưng Phong, huyện Giồng Trôm”
• Quy định quản lý truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa
• Nghiệm thu đề tài “Khảo sát sự lưu hành của virus và đánh giá đáp ứng miễn dịch sau khi tiêm phòng vaccine viêm da nổi cục trên bò tại Bến Tre”
• Hội thảo “Một số giải pháp xây dựng sản phẩm OCOP trên địa bàn tỉnh Bến Tre”
• Hội thảo đề tài “Nghiên cứu quy trình công nghệ và hệ thống thiết bị sơ chế, xử lý và bảo quản quả bưởi tươi phục vụ nội tiêu và xuất khẩu”
• Hội thảo đề tài “Nghiên cứu đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải của kênh, rạch, mương trong chăn nuôi heo tại huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre”
• Công bố quy hoạch mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ công lập thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050
• Khác biệt chưa biết về chỉ dẫn địa lý “Bến Tre” cho sản phẩm xoài Tứ Quý
• Phát hành hóa đơn điện tử ngay sau từng lần bán hàng xăng dầu
• Bến Tre: Tập huấn về cơ chế chi trả dựa vào kết quả - RBF và hướng dẫn nghiệm thu công trình khí sinh học trong chăn nuôi cho cán bộ kiểm tra chất lượng và thợ xây, thợ lắp đặt tại địa phương
• Hội thảo “Giải pháp khai thác hiệu quả các bãi bồi, cồn nổi ven sông trên địa bàn tỉnh Bến Tre”
• Hội thảo “Nghiên cứu thực trạng sụt lún, ngập úng và đề xuất giải pháp thích ứng tại xã đảo Hưng Phong, huyện Giồng Trôm”
• Sản phẩm gạo “Thạnh Phú” được bảo hộ chỉ dẫn địa lý
• Hội nghị cán bộ, công chức, viên chức Sở Khoa học và Công nghệ năm 2024