Nghiên cứu STI/HIV và hành vi nguy cơ quần thể phụ nữ mại dâm tỉnh Bến Tre
HIV là vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người, làm cho cơ thể suy giảm khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh. Loại vi rút này hiện nay đang được cộng đồng và nhiều ngành chức năng trên toàn cầu quan tâm. Ở Việt Nam, cụ thể là ở Bến Tre, theo Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS, tính đến 31/5/2012, số trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống là 994 người, 352 người chuyển sang giai đoạn AIDS, 637 người đã tử vong. Bên cạnh đó, thì vấn đề nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục (STI) có triệu chứng hay không có triệu chứng đều làm gia tăng khả năng lây nhiễm HIV.
Dưới sự tài trợ của Dự án Phòng chống HIV/AIDS tại Bến Tre-Ngân hàng Thế giới, Chương trình can thiệp giảm hại (chương trình 100% bao cao su) đã được triển khai tại Bến Tre từ năm 2005 nhằm cung cấp bao cao su (BCS) miễn phí và điều trị STI cho quần thể phụ nữ mại dâm (PNMD) tỉnh Bến Tre tại các điểm nóng về dịch HIV. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có số liệu cụ thể. Do đó việc điều tra đánh giá tỷ lệ nhiễm STI/HIV ở quần thể PNMD tại Bến Tre là hết sức cần thiết nhằm đánh giá và lập kế hoạch can thiệp dịch STI/HIV hiệu quả ở quần thể này trong thời gian tới.
Trước tình hình trên Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS chủ trì thực hiện đề tài “Nghiên cứu STI/HIV và hành vi nguy cơ quần thể PNMD tỉnh Bến Tre năm 2012”, thuộc Chương trình Phòng chống HIV/AIDS, do TS.BS Nguyễn Vũ Thượng-Viện Pasteur TP Hồ Chí Minh và BS chuyên khoa II Lê Thị Kim Thoa đồng chủ nhiệm thực hiện trong thời gian 07 tháng. Trong đó toàn bộ kinh phí do Dự án Phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam do Ngân hàng Thế giới tài trợ.
Trong khuôn khổ của đề tài, nhóm nghiên cứu đã chọn 400 PNMD đang hoạt động bán dâm tại Bến Tre, từ 16 tuổi trở lên, tập trung ở TP Bến Tre, Mỏ Cày (Mỏ Cày Nam và Mỏ Cày Bắc), Châu Thành và Ba Tri. Trong quá trình nghiên cứu, nhóm thực hiện đã tiến hành điều tra mỗi huyện ít nhất 1 điểm và được chia thành hai nhóm. Việc thu thập thông tin được tiến hành bằng bảng câu hỏi gồm một số vấn đề như: Kiến thức và thái độ của PNMD về HIV/AIDS, nhận thức được nguy cơ HIV và STI, độ tuổi, tình trạng hôn nhân và một số vấn đề khác như hành vi tình dục, sử dụng ma túy,… Người tham gia nghiên cứu được xét nghiệm HIV, giang mai, lậu, chlamydia, trùng roi. Đối với những cá nhân nhiễm giang mai, lậu, chlamydia, trùng roi được hướng dẫn đến phòng khám và điều trị thích hợp, miễn phí.
Qua điều tra cho thấy, kiến thức về HIV của PNMD ở Bến Tre khá tốt (77,8%), các chỉ số kiến thức liên quan đến HIV đều có cải thiện so với khảo sát năm 2009, đặc biệt là sự cải thiện về hiểu biết các đường không lây HIV. Hiểu biết về STI cũng ở mức độ khá. Tỷ lệ luôn dùng BCS khi quan hệ tình dục (QHTD) với khách hàng qua tường thuật của PNMD là rất cao 98,8% có cải thiện so với các năm trước. Bên cạnh đó, việc tiếp cận các dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện và can thiệp giảm hại như: thông tin về tình dục an toàn, nơi xét nghiệm HIV,… cũng được PNMD Bến Tre biết đến ở mức cao.
Theo kết quả phân tích đơn biến của nhóm thực hiện cho thấy, những PNMD thiếu kiến thức về HIV, STI, nhận biết sai quy trình sử dụng BCS qua tranh vẽ, nhận thức bản thân có khả năng nhiễm HIV, hành nghề trực tiếp và thường xuyên uống rượu bia trước khi QHTD thì có tỷ lệ nhiễm HIV cao hơn các nhóm tương ứng. Kết quả phân tích đa biến của nhóm nghiên cứu cũng cho thấy, PNMD hành nghề trực tiếp có khả năng nhiễm giang mai cao hơn PNMD hành nghề gián tiếp và khả năng nhiễm chlamydia thấp hơn PNMD có tuổi càng lớn, trình độ học vấn càng cao và có kiến thức cần thiết về HIV. Đối với lậu, PNMD hiện đang li dị có xu hướng nhiễm lậu thấp hơn so với những người chưa có gia đình.
Để giảm thiểu tình trạng nhiễm HIV/STI ở PNMD, nhóm thực hiện cũng đưa ra kiến nghị: Duy trì và tăng cường việc tiếp cận dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện cho PNMD đảm bảo chất lượng và gia tăng tỷ lệ quay lại nhận kết quả xét nghiệm; Tiếp tục truyền thông về tình dục an toàn và tiêm chích an toàn cho PNMD, chú ý kết hợp việc truyền thông về HIV, AIDS với các bệnh lây qua đường tình dục khác. Xem xét lại mạng lưới hoạt động của đồng đẳng viên trong chương trình 100% BCS. Mặc dù tỷ lệ luôn sử dụng BCS khi quan hệ với khách hàng đạt yêu cầu nhưng tỷ lệ hiện mắc STI là khá cao. Bên cạnh đó cũng cần cập nhật bản đồ điểm nóng hàng năm để có thể ước tính cỡ quần thể, qua đó biết được “mẫu số” quần thể PNMD, đảm bảo ước tính độ bao phủ của mạng lưới các tụ điểm.
Thành công của đề tài được Hội đồng đánh giá cao và nghiệm thu loại khá. Qua đó, hội đồng đề nghị nhóm nghiên cứu bổ sung nhiệm vụ cụ thể của Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS, cần tiếp tục làm gì để sau kết thúc dự án để giữ vững thành quả đạt được trong thời gian qua.
Kim Tuyền
Trung tâm Thông tin KH&CN