Hiến pháp mới, khẳng định rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước coi phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu

Để đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, phát triển đất nước nhanh và bền vững, chúng ta phải lựa chọn con đường phát triển tất yếu dựa vào khoa học và công nghệ. Từ hơn nửa thế kỷ trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Nhiệm vụ của khoa học, kĩ thuật là cực kì quan trọng, cho nên mọi ngành, mọi người đều phải tham gia công tác khoa học, kĩ thuật, để nâng cao năng suất lao động, sản xuất ra nhiều của cải vật chất, để xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi”(1). Điều đó có nghĩa, nhiệm vụ phát triển khoa học, kĩ thuật là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, là điều kiện quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước. Các nhà khoa học có vai trò tạo ra tri thức và phổ biến tri thức cho nhân dân và nhân dân cũng cần tích cực học hỏi, sống, làm việc một cách khoa học để đưa đất nước đi lên, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thấm nhuần những lời dạy sâu sắc đó của Người, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách, định hướng phát triển chiến lược, quan trọng cho nền khoa học-công nghệ nước nhà, đặc biệt Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về khoa học, kỹ thuật trong tình hình mới, nhằm khắc phục những yếu kém trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học, công nghệ, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XI, Đảng ta đã ra Nghị quyết về Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học, công nghệ (2).

Đảng ta khẳng định, khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo phải thật sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển đất nước. Vì thế, phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ, coi đây là khâu đột phá. Đồng thời, xác định nguồn nhân lực (cán bộ) khoa học, công nghệ là nhân tố quyết định đối với phát triển khoa học và công nghệ. Ưu tiên nguồn lực quốc gia, tạo động lực để phát triển khoa học và công nghệ. Chủ động hợp tác và hội nhập quốc tế một cách sâu rộng, hiệu quả.   

Về mục tiêu tổng quát, Nghị quyết Trung ương 6 lần này xác định: Khoa học và công nghệ thật sự trở thành động lực then chốt phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, tạo chuyển biến về chất trong đóng góp của khoa học và công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và là nước công nghiệp hiện đại vào giữa thế kỷ XXI. 

Về mục tiêu cụ thể: đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới; tiềm lực khoa học và công nghệ đáp ứng các yêu cầu cơ bản của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt mục tiêu trên, cần tiếp tục đổi mới tư duy, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ; triển khai các định hướng nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu; phát huy và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia; phát triển thị trường khoa học và công nghệ; hợp tác và hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ (3). 

Đảng và Nhà nước “Có trách nhiệm và chính sách đặc biệt phát triển, trọng dụng và phát huy tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ để khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt, là lực lượng sản xuất trực tiếp, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và là nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI”(4).

Các quan điểm, chủ trương, chính sách về KH&CN được thể hiện trong Hiến pháp: Nội dung có liên quan về khoa học và công nghệ trong Hiến pháp năm 1992 được quy định tại Điều 37, Điều 38 (Chương III). Các nội dung liên quan đến khoa học và công nghệ đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng hoàn thiện và nâng cao vị thế, vai trò, mục tiêu phát triển cũng như các chế định về chính sách khoa học và công nghệ, trách nhiệm của nhà nước trong phát triển khoa học và công nghệ; Quyền con người trong nghiên cứu khoa học, công nghệ; chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài; Vai trò của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, MTTQ Việt Nam.

Cùng với xác định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài (Điều 61), tại Điều 62, Chương III, Hiến pháp 2013 khẳng định: “Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Nhà nước tạo điều kiện để mọi người tham gia và được thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động khoa học và công nghệ.

Hiến pháp 2013 đã đưa vai trò của khoa học và công nghệ từ vị thế giữ vai trò then chốt, là động lực thúc đẩy phát triển đất nước (Hiến pháp 1992) lên vị trí Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vai trò “quốc sách hàng đầu” về phát triển khoa học và công nghệ được nâng lên đặt ngang tầm với giáo dục và đào tạo, phù hợp với định hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu nêu trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng: “Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển”.

Quyền con người trong nghiên cứu khoa học, công nghệ: Con người được tự do nghiên cứu khoa học, tự do tìm tòi, suy nghĩ để đưa ra các phát minh, sáng chế, sáng kiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất… tạo ra các sản phẩm công nghệ, công trình khoa học. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định “Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ”. Để khẳng định rõ các quan điểm quan điểm tự do sáng tạo trong lĩnh vực cơ bản đó, Hiến pháp sửa đổi quy định: “Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó”(Điều 40).

Ngoài ra, vai trò khoa học và công nghệ có ý nghĩa quan trọng đối với việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên tiết kiệm, hiệu quả. Hiến pháp đã thể hiện được những vấn đề mới của thời đại như vấn đề phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng… Hiến pháp ghi nhận quyền được sống trong môi trường trong lành và nghĩa vụ bảo vệ môi trường của mọi người (Điều 43); đồng thời, quy định Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường, quản lý và sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu; khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Hiến pháp cũng quy định tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại (Điều 63).

Với vai trò, vị thế của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định tại Điều 9 Hiến Pháp 2013: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài”, góp phần phát triển khoa học và công nghệ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có thể phát triển các tổ chức thành viên, trong đó có các tổ chức chính trị - xã hội, bao gồm Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 16/4/2010 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã khẳng định “Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam có hệ thống từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là tổ chức chính trị - xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có chức năng tập hợp, đoàn kết và phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam trong và ngoài nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội thành viên và hội viên của các hội thành viên, góp phần đưa khoa học và công nghệ trở thành động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.78.

(2) Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI diễn ra tại Hà Nội từ ngày 1-10-2012 đến ngày 15-10-2012, để thảo luận, cho ý kiến các báo cáo, đề án về: Tình hình kinh tế - xã hội năm 2012, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013; tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; phát triển khoa học và công nghệ; quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh chủ chốt của Đảng và Nhà nước; việc thành lập Ban Kinh tế Trung ương; Báo cáo kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" và một số vấn đề quan trọng khác (T.G).   

(3),(4): Thông báo Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Báo Nhân Dân, ngày 16-10-2012.  

Nguyễn Văn Thanh

 10/24 - ĐăngTất - Đông Hà- Quảng  Trị

Tin tức khác cùng chuyên mục
• Bến Tre phát triển giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng
• Nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải của kênh, rạch, mương trong chăn nuôi heo tại huyện Mỏ Cày Nam”
• Kiểm định huyết áp kế tại tỉnh Bến Tre
• Thành lập hội đồng quốc gia về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
• Nghiệm thu đề tài “Điều tra thực trạng, đánh giá chế độ dòng chảy, xu thế diễn biến các bãi bồi, cồn nổi ven sông và đề xuất giải pháp khai thác tổng hợp”
• Lãnh đạo tỉnh tiếp và làm việc với đoàn công tác UBND TP. Cần Thơ về việc biên soạn Địa phương chí tỉnh Bến Tre
• Tiếp và làm việc đoàn công tác Bộ phận đại diện khoa học và công nghệ (KH&CN) tại Đài Loan (Trung Quốc), Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ - Bộ KH&CN
• Nghiệm thu đề tài “Tạo lập, quản lý, và phát triển chỉ dẫn địa lý “Thạnh Phú” cho sản phẩm gạo của huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre”
• Hội thảo “Góp ý Quy trình kỹ thuật ương thuần dưỡng và nuôi thương phẩm cá bông lau trong ao đất tại Bến Tre”
• Nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu thực trạng sụt lún, ngập úng và đề xuất giải pháp thích ứng tại xã đảo Hưng Phong, huyện Giồng Trôm”
• Quy định quản lý truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa
• Nghiệm thu đề tài “Khảo sát sự lưu hành của virus và đánh giá đáp ứng miễn dịch sau khi tiêm phòng vaccine viêm da nổi cục trên bò tại Bến Tre”
• Hội thảo “Một số giải pháp xây dựng sản phẩm OCOP trên địa bàn tỉnh Bến Tre”
• Hội thảo đề tài “Nghiên cứu quy trình công nghệ và hệ thống thiết bị sơ chế, xử lý và bảo quản quả bưởi tươi phục vụ nội tiêu và xuất khẩu”
• Hội thảo đề tài “Nghiên cứu đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải của kênh, rạch, mương trong chăn nuôi heo tại huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre”