Sản phẩm gạo “Thạnh Phú” được bảo hộ chỉ dẫn địa lý

BDK.VN - Ngày 5-2-2024, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ ban hành Quyết định số 68/QĐ-SHTT về việc cấp giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý số 00137 “Thạnh Phú” cho sản phẩm gạo, nâng tổng số chỉ dẫn địa lý của tỉnh hiện nay lên đến 8 chỉ dẫn địa lý. Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) là tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý này.

 

 

Logo gạo Thạnh Phú.

 

Độc quyền gạo Thạnh Phú


Năm 2023, toàn huyện Thạnh Phú có tổng diện tích trồng lúa các vụ 4.845,88ha, tăng 2,29% so với cùng kỳ; sản lượng thu hoạch 20.512,5 tấn, tăng 1,7% so với cùng kỳ. Vụ lúa mùa có diện tích 4.496,24ha, tăng 3,32% so với cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 19.104,5 tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ. Vụ Hè Thu có diện tích 21,64ha, giảm 45,35% so với cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 63 tấn, giảm 41,14%. Vụ Thu Đông có diện tích 328ha, giảm 9,64% so với cùng kỳ, sản lượng thu hoạch 1.345 tấn, giảm 9,73%.

 

Huyện đã chủ động phối hợp với các cấp ngành tỉnh, địa phương tích cực triển khai hỗ trợ cho 5 xã An Thuận, An Qui, An Điền, An Thạnh và Mỹ An trên địa bàn thực hiện mô hình sản xuất lúa theo hướng hữu cơ với diện tích 137,3ha sử dụng vốn hỗ trợ địa phương trồng lúa theo Nghị định số 35/2025/NĐ-CP ngày 13-4-2015 về quản lý, sử dụng đất trồng lúa và Nghị định số 62/2019/NĐ-CP ngày 11-7-2019 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 35/2015/NĐ-CP ngày 13-4-2015 của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa, mô hình đang phát triển tốt.

 

 

Khu vực địa lý sản xuất sản phẩm gạo Thạnh Phú gồm các xã An Nhơn, An Điền, Giao Thạnh, Thạnh Phong, An Thạnh, An Qui, Mỹ An thuộc huyện Thạnh Phú, hiện đang có 236 hộ trồng lúa Nàng Keo với diện tích 282,22ha.

 

Đặc hữu về giống


Khác với giống lúa trời hoặc giống lúa ma… bởi nó mọc tự nhiên, tự sống ven các ao đìa, đồng bãi và cả rừng ngập mặn; bất kể nắng mưa hay nước lũ, phèn chua đất mặn, lúa trời vẫn trĩu hạt, hạt chín tự rụng xuống đất, theo nước trôi dạt, tự ủ mình tựa giấc ngủ dài đến lúc thuận lợi thì tấp vào đâu đó mặc kệ, lên xanh và lặng lẽ trổ bông, cứ thế mà truyền kiếp, có giá trị bảo tồn và khoa học rất cao.

 

Có những điểm tương đối với lúa mùa nổi được người dân trồng trước năm 1985, có tên khoa học là Floating rice gần giống với lúa ma, cây lúa tự ngậm sương mà nẩy mầm, rồi lớn, không phân bón, không phun thuốc trừ sâu, gieo sạ vào tháng 5 âm lịch, khi nước lũ từ sông Mekong đổ về, nước đến đâu, cây lúa vươn lóng đến đó, dài tới từ 3 - 5m, vượt trên mặt lũ để sinh trưởng, đơm bông với thời gian sinh trưởng của lúa tầm 6 tháng nên được gọi là lúa mùa nổi, hiện có giá trị dinh dưỡng và thương mại khá cao.

 

Giống lúa Nàng Keo là một giống lúa mùa cổ truyền được người dân trồng và gìn giữ từ hàng trăm năm. Tên gọi Nàng Keo mang tên của một người con gái như một số giống lúa thơm khác như: Nàng Hương, Nàng Thơm, Nàng Tét, Nàng Gáo… Cây lúa tại huyện Thạnh Phú đã đi vào thơ ca “Lúa vàng Thạnh Phú, khoai mì Thạnh Phong”. Nàng Keo được trồng nhiều nhất trong vùng canh tác tự nhiên lúa - tôm tại huyện Thạnh Phú. Cây lúa tại huyện đã đi vào thơ ca “Lúa vàng Thạnh Phú, khoai mì Thạnh Phong”. Do có tính chịu mặn cao, lúa Nàng Keo rất thích hợp với mô hình lúa - tôm ở các vùng đất ven biển nơi đất bị ngập nước khi thủy triều lên hoặc bị xâm ngập mặn và mô hình canh tác lúa tôm đang trở thành phương thức canh tác thông minh để thích ứng với biến đổi khí hậu. Cho đến nay, người dân Thạnh Phú vẫn giữ những nếp sống, thói quen sinh hoạt, nét văn hóa và phương thức canh tác lúa Nàng Keo truyền thống.

 

Đặc thù chất lượng


Gạo Thạnh Phú có hình dạng tròn ngắn, hạt chắc, đều, ít bị gãy vỡ, màu hồng nhạt và có mùi thơm nhẹ. Hạt gạo có chiều dài 5,13 - 5,91mm, tỷ lệ dài/rộng 2,10 - 2,4, nhiệt độ hồ hóa ở mức trên 74oC. Ngoài ra, hàm lượng Amylose trong gạo ở mức 22,0 - 24,3%, hàm lượng Protein ở mức 9,43 - 12,10% và hàm lượng tinh bột là 72,2 - 75,3%.

 

Gạo và cơm nấu từ gạo Thạnh Phú.

 

Gạo và cơm nấu từ gạo Thạnh Phú.

 

Các tính chất, chất lượng đặc thù của gạo Thạnh Phú có được là nhờ những điều kiện đặc thù tại vùng đất nơi đây. Khu vực địa lý có địa hình tương đối bằng phẳng với nhiều vùng trũng cục bộ. Nhiệt độ trung bình năm 27,3oC, tổng số giờ nắng trong năm trung bình 2.067 giờ, độ ẩm không khí trung bình năm 83%, biên độ nhiệt ngày đêm 11,4 - 14oC. Đặc điểm khí hậu ảnh hưởng lớn tới quá trình quang hợp của cây và tích lũy chất khô của hạt lúa, cũng như làm cho quá trình trổ bông, tích lũy dinh dưỡng của cây lúa được kéo dài. Nhờ vậy, hàm lượng Protein trong gạo khá cao, trung bình ở mức 10,89%.

 

Độc đáo thổ nhưỡng


Thổ nhưỡng khu vực địa lý bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn do triều cường, được bồi tụ hàng năm bởi hai con sông Hàm Luông và Cổ Chiên. Đất có thành phần cơ giới nặng, nhiễm mặn từ ít đến trung bình, độ pH (KCl) trung bình 5,61, hàm lượng P2O5 tổng số trung bình 0,31%, hàm lượng P2O5 dễ tiêu trung bình 0,18 mg/kg, K2O tổng số trung bình 2,33%, hàm lượng OM trung bình 33,33%, chỉ số EC trung bình 0,48mS/cm.

 

Nguồn nước tưới cho gạo Thạnh Phú cũng là nước lợ với chỉ số tổng chất rắn hòa tan (TDS) ở mức từ 600 đến 1.830mg/l. Độ mặn có ảnh hưởng tới hàm lượng 2-acetyl-1-pyroline (2AP) trong hạt gạo, hợp chất dễ bay hơi chính của hương gạo dẫn tới hạt gạo có mùi thơm hơn.

 

Các chỉ số P2O5, K2O trong đất trồng gạo Thạnh Phú là nguồn dinh dưỡng thích hợp cho cây lúa sinh trưởng và phát triển trong giai đoạn đầu, cho nên đất gieo sạ không cần cày xới, bón lót phân lân, vôi cải tạo đất, phân chuồng ủ hoai… giải độc phèn giúp lúa phát triển tốt ngay từ thời kỳ đầu.

 

Độc lạ hình thức canh tác


Ngoài các yếu tố về tự nhiên, quy trình canh tác, chăm sóc của người dân Thạnh Phú cũng góp phần tạo nên tính chất, chất lượng đặc thù của sản phẩm gạo Thạnh Phú. Người dân địa phương chỉ sử dụng duy nhất giống gạo Nàng Keo địa phương để sản xuất gạo Thạnh Phú. Ngoài ra, tại đây áp dụng hình thức canh tác lúa - tôm, do đó người dân chỉ gieo cấy lúa một vụ trong năm từ tháng 7 đến tháng 12 dương lịch. Trong các tháng còn lại, ruộng lúa được tận dụng để làm đầm nuôi tôm. Việc luân xen canh với vụ nuôi tôm nên xác bã động vật, thực vật phân huỷ tạo nên lớp đất mùn xốp trên tầng đất canh tác. Cũng do việc luân canh lúa – tôm, trước khi cấy sạ, người dân địa phương phải sử dụng nước ngọt để rửa mặn thông qua hệ thống các cống cấp thoát nước và phơi mặt ruộng từ 3 - 7 ngày.

 

Cánh đồng lúa Thạnh Phú.

 

Cánh đồng lúa Thạnh Phú.

 

Bên cạnh hình thức canh tác lúa - tôm, những nhà nông tại Thạnh Phú còn có kỹ thuật phòng trừ sâu bệnh độc đáo. Khi côn trùng gây hại xuất hiện lúc lúa còn nhỏ, nước sẽ được dẫn vào ngập đọt lúa trong vài giờ rồi tháo nước ra (mỗi tháng thực hiện 1 - 2 lần theo nước triều dâng). Khi lúa đã lớn, đưa nước dâng cao đến gần cổ lá. Ngoài ra, người dân còn kết hợp thả cá nuôi trong ruộng lúa hoặc hoặc thả vịt con vào ruộng sau khi sạ 30 ngày phòng để trừ sâu rầy. Kỹ thuật này giúp tăng chất lượng gạo là do cây lúa hoàn toàn khỏe mạnh và không bị tác động của hóa chất độc hại nên sản xuất ra hạt gạo có chất lượng ngon hơn so với khi phun thuốc trừ sâu, cũng như tiết kiệm chi phí thuốc trừ sâu và công phun.

 

Vào tháng 12, khi lúa đã chín đạt trên 85% sẽ tiến hành thu hoạch. Lúa sau khi gặt sẽ được đập lấy hạt và phơi 3 nắng, sau đó tiến hành quạt sạch và bảo quản ở những nơi khô ráo trong nhà nhằm tránh hiện tượng mối mọt và ẩm mốc. Gạo chỉ được xay xát trước khi mang ra sử dụng hoặc thương mại để duy trì chất lượng và các giá trị dinh dưỡng.

Tin tức khác cùng chuyên mục
• Nghiệm thu đề tài “Tạo lập, quản lý, và phát triển chỉ dẫn địa lý “Thạnh Phú” cho sản phẩm gạo của huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre”
• Hội thảo “Góp ý Quy trình kỹ thuật ương thuần dưỡng và nuôi thương phẩm cá bông lau trong ao đất tại Bến Tre”
• Nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu thực trạng sụt lún, ngập úng và đề xuất giải pháp thích ứng tại xã đảo Hưng Phong, huyện Giồng Trôm”
• Quy định quản lý truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa
• Nghiệm thu đề tài “Khảo sát sự lưu hành của virus và đánh giá đáp ứng miễn dịch sau khi tiêm phòng vaccine viêm da nổi cục trên bò tại Bến Tre”
• Hội thảo “Một số giải pháp xây dựng sản phẩm OCOP trên địa bàn tỉnh Bến Tre”
• Hội thảo đề tài “Nghiên cứu quy trình công nghệ và hệ thống thiết bị sơ chế, xử lý và bảo quản quả bưởi tươi phục vụ nội tiêu và xuất khẩu”
• Hội thảo đề tài “Nghiên cứu đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải của kênh, rạch, mương trong chăn nuôi heo tại huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre”
• Công bố quy hoạch mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ công lập thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050
• Khác biệt chưa biết về chỉ dẫn địa lý “Bến Tre” cho sản phẩm xoài Tứ Quý
• Phát hành hóa đơn điện tử ngay sau từng lần bán hàng xăng dầu
• Bến Tre: Tập huấn về cơ chế chi trả dựa vào kết quả - RBF và hướng dẫn nghiệm thu công trình khí sinh học trong chăn nuôi cho cán bộ kiểm tra chất lượng và thợ xây, thợ lắp đặt tại địa phương
• Hội thảo “Giải pháp khai thác hiệu quả các bãi bồi, cồn nổi ven sông trên địa bàn tỉnh Bến Tre”
• Hội thảo “Nghiên cứu thực trạng sụt lún, ngập úng và đề xuất giải pháp thích ứng tại xã đảo Hưng Phong, huyện Giồng Trôm”
• Hội nghị cán bộ, công chức, viên chức Sở Khoa học và Công nghệ năm 2024