Hội thảo mô hình nuôi tôm siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao, gắn kết giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, hợp tác xã

Sáng ngày 24/11/2023, Ủy ban nhân dân huyện Thạnh Phú phối hợp Trường Cao đẳng nông nghiệp Nam Bộ tổ chức hội thảo mô hình nuôi tôm siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao, gắn kết giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, hợp tác xã.

 

Đến dự có lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Lao động Thương binh và Xã hội của 2 tỉnh Bến Tre và Tiền Giang. Đối với huyện Thạnh Phú có Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Mai Văn Hùng cùng một số hộ nuôi tôm công nghệ cao trên địa bàn huyện.

 

Phó Chủ tịch UBND huyện Thạnh Phú Mai Văn Hùng tham luận về giải pháp để đầu ra của sản phẩm thủy sản ổn định, bền vững. Ảnh: Minh Mừng.

 

Tại đây, đại biểu được nghe giới thiệu một số nội dung gồm: thực trạng, ý tưởng thiết kế, yêu cầu, phạm vi áp dụng và các đặc tính kinh tế, kỹ thuật của mô hình nuôi tôm siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao gắn kết giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, hợp tác xã; hướng dẫn vận hành sử dụng, khai thác và khả năng mở rộng phát triển mô hình; thực trạng, giải pháp phát triển mô hình nuôi trồng thủy sản công nghệ cao; quản lý chất lượng môi trường trong nuôi tôm công nghệ cao gắn với bền vững môi trường; phòng trị và kiểm soát dinh dưỡng nuôi tôm trong mô hình; những giải pháp để đầu ra của sản phẩm thủy sản ổn định, bền vững… Bên cạnh, đại biểu được tham quan mô hình thu nhỏ bể nuôi tôm siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao.

 

Tại tỉnh Bến Tre, trong cơ cấu diện tích nuôi trồng thủy sản thì nuôi tôm nước lợ chiếm khoảng 76%, trong năm 2023 có diện tích hơn 36.300ha. Một trong những cột mốc đánh dấu sự phát triển về loại hình nuôi tôm nước lợ là sự chuyển đổi nhanh từ hình thức nuôi thâm canh, bán thâm canh truyền thống sang nuôi nuôi ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn 3 huyện Ba Tri, Bình Đại và Thạnh Phú. Với diện tích từ 550ha vào năm 2018, đến cuối năm 2023 toàn tỉnh đạt gần 3.100ha, năng suất bình quân 60-70 tấn/ha mặt nước, lợi nhuận trung bình từ 700-800 triệu đồng/vụ nuôi, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân. Sản lượng nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao đạt 56 ngàn tấn, chiếm 58% tổng sản lượng nuôi tôm nước lợ của tỉnh. Hoạt động sản xuất con giống ngày càng được nâng cao về chất lượng, toàn tỉnh tỉnh có 56 trại sản xuất ương dưỡng giống tôm với tổng công suất thiết kế ước tính khoảng 6 tỷ con giống/năm.

 

Đại biểu tham quan mô hình thu nhỏ bể nuôi nuôi tôm siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao. Ảnh: Minh Mừng. 

 

Riêng tại huyện Thạnh Phú, với chủ trương phát triển kinh tế hướng Đông của tỉnh, huyện đã xây dựng và triển khai kế hoạch phát triển 1.500ha nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao đến năm 2025, hiện đã phát triển 1.247 ha nuôi tôm 2, 3 giai đoạn, nuôi tôm công nghệ cao. Để tạo điều kiện cho phát triển ổn định, thời gian qua huyện tập trung tổ chức lại sản xuất, hợp tác, liên kết với Công ty Cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam, các ngân hàng thương mại hỗ trợ xây dựng mô hình, tập huấn chuyển giao khoa kỹ thuật, vay vốn ưu đãi xây dựng chuỗi giá trị nuôi tôm. Để tạo đầu ra sản phẩm ổn định cho chuỗi tôm, ngoài việc tiếp tục kiến nghị tỉnh hỗ trợ kết nối các doanh nghiệp có năng lực liên kết tiêu thụ, huyện chủ động kêu gọi các doanh nghiệp liên kết tiêu thụ sản phẩm tôm thương phẩm của huyện; tiếp tục hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ đầu tư 02 nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu đầu tự tại huyện (đã có chủ trương đầu tư của tỉnh); phối hợp nhân rộng mô hình nuôi tôm công nghệ cao an toàn dịch bệnh; hỗ trợ các khu nuôi có diện tích lớn xây dựng khu nuôi tôm biển theo mô hình ứng dụng công nghệ cao đạt tiêu chuẩn BAT, ASC…

 

Tại hội thảo, đại diện các hộ nuôi tôm công nghệ cao cũng có những chia sẻ kinh nghiệm trong quá trình nuôi tôm công nghệ cao đạt hiệu quả. Đồng thời, đề xuất cần quan tâm đào tạo nguồn lực phục vụ nuôi tôm công nghệ cao; triển khai mô hình nuôi tôm thâm canh ứng dụng công nghệ cao vào thực tiễn tại các hộ nuôi để năng cao năng suất và lợi nhuận.

Tin tức khác cùng chuyên mục
• Nghiệm thu đề tài “Tạo lập, quản lý, và phát triển chỉ dẫn địa lý “Thạnh Phú” cho sản phẩm gạo của huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre”
• Hội thảo “Góp ý Quy trình kỹ thuật ương thuần dưỡng và nuôi thương phẩm cá bông lau trong ao đất tại Bến Tre”
• Nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu thực trạng sụt lún, ngập úng và đề xuất giải pháp thích ứng tại xã đảo Hưng Phong, huyện Giồng Trôm”
• Quy định quản lý truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa
• Nghiệm thu đề tài “Khảo sát sự lưu hành của virus và đánh giá đáp ứng miễn dịch sau khi tiêm phòng vaccine viêm da nổi cục trên bò tại Bến Tre”
• Hội thảo “Một số giải pháp xây dựng sản phẩm OCOP trên địa bàn tỉnh Bến Tre”
• Hội thảo đề tài “Nghiên cứu quy trình công nghệ và hệ thống thiết bị sơ chế, xử lý và bảo quản quả bưởi tươi phục vụ nội tiêu và xuất khẩu”
• Hội thảo đề tài “Nghiên cứu đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải của kênh, rạch, mương trong chăn nuôi heo tại huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre”
• Công bố quy hoạch mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ công lập thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050
• Khác biệt chưa biết về chỉ dẫn địa lý “Bến Tre” cho sản phẩm xoài Tứ Quý
• Phát hành hóa đơn điện tử ngay sau từng lần bán hàng xăng dầu
• Bến Tre: Tập huấn về cơ chế chi trả dựa vào kết quả - RBF và hướng dẫn nghiệm thu công trình khí sinh học trong chăn nuôi cho cán bộ kiểm tra chất lượng và thợ xây, thợ lắp đặt tại địa phương
• Hội thảo “Giải pháp khai thác hiệu quả các bãi bồi, cồn nổi ven sông trên địa bàn tỉnh Bến Tre”
• Hội thảo “Nghiên cứu thực trạng sụt lún, ngập úng và đề xuất giải pháp thích ứng tại xã đảo Hưng Phong, huyện Giồng Trôm”
• Sản phẩm gạo “Thạnh Phú” được bảo hộ chỉ dẫn địa lý